Bản án 354/2018/HSPT ngày 07/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 354/2018/HSPT NGÀY 07/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 07 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 307/2018/TLPT-HS ngày 17/9/2018 đối với bị cáo Lê Viết H, do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng và kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2018/HSST ngày 09/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:

Họ và tên: Lê Viết H (S em) - Sinh năm 1957 tại Thừa Thiên Huế.

Nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện K, Đắk Lắk; nghề nghiệp: Công an viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh. Con ông: Lê Viết H1; con bà: Võ Thị Tuyết X (chết); tiền án, tiền sự: không có. Vợ: Võ Thị N; có 03 con, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1993. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại (có mặt).

Người bị hại: Ông Nguyễn Hữu T (Đã chết)

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Võ Thị Kim Q. Trú tại: Thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đăk Lăk, vắng mặt

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tri Ph- Sinh năm 1957

Trú tại: Thôn Đ, xã P, huyện K, tỉnh Đăk Lăk, có mặt

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Trương Quốc L

Trú tại: Thôn H, xã P, huyện K, tỉnh Đăk Lăk, vắng mặt

- UBND xã P, huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Duy H - chức vụ: Phó chủ tịchUBND xã, vắng mặt

 - Công an xã P, huyện K, tỉnh Đăk Lăk. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn P - Chức vụ: Trưởng công an xã, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 03/7/2014, anh Trương Quốc L đang ngủ tại tiệm cửa sắt của mình tại thôn X H thì nghe tiếng động bên ngoài, anh L dậy kiểm tra thì phát hiện anh Nguyễn Hữu T đang kéo một cây sắt phi 10 trong đống sắt trước cửa tiệm. Thấy vậy, anh L dùng chân đạp cánh cửa tiệm bung ra trúng vào lưng anh T, làm anh T chao đảo người về phía trước rồi bỏ chạy ra đường, anh L hô “trộm, trộm” rồi đuổi theo và bắt được anh T. Sau đó, anh L gọi điện thoại cho ông Lê Viết S (là trưởng thôn H) đến để giải quyết. Sau khi nghe báo tin, ông Sơn liên lạc với Lê Viết H (là công an viên xã P). H gọi điện cho anh Hồ Minh T, Nguyễn Văn H và Hoàng Văn T- thuộc tổ liên gia tự quản của thôn H cùng đến tiệm cửa sắt nhà anh L để xử lý sự việc.

Khi đến tiệm cửa sắt nhà anh L, Lê Viết H đưa anh T đến hội trường thôn X H để làm việc. Khi đến nơi, H gọi điện cho ông Trần Duy H là Trưởng công an xã P để báo cáo sự việc và được ông H chỉ đạo tiến hành lập biên bản sự việc, ghi lời khai của người biết việc, lời khai của anh T, tạm giữ phương tiện rồi cho anh T về. H trực tiếp làm việc với anh T và anh L, còn anh Hồ Minh T, Nguyễn Văn H và Hoàng Văn T ngồi xem tivi. H cho anh L ngồi trên ghế nhựa viết bản tự khai về việc lấy trộm sắt của anh L, tuy nhiên do anh T viết bản tự khai với nội dung không thừa nhận hành vi trộm cắp mà chỉ vào xem sắt để về đổ trụ tiêu và nội dung bản tự khai không rõ ràng nên H quát và dùng tay tát vào mặt anh T nhiều cái, bắt anh T viết lại bản tự khai nhiều lần.

Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 04/7/2014, khi đang viết lại bản tự khai lần thứ năm thì anh T kêu đau đầu rồi gục mặt xuống bàn ngủ. Thấy vậy, H dùng tay túm tóc anh T kéo giật ngược lên rồi dùng tay tát vào mặt anh T và yêu cầu anh T tiếp tục viết bản tự khai nhưng do anh T không dậy mà kêu mệt, buồn ngủ nên H không làm việc với anh T nữa. Một lúc sau, thấy anh T đang ngồi trên ghế tự ngã đập đầu xuống nền nhà thì H cùng với các anh Nguyễn Văn H, Minh T và Văn T đỡ anh T dậy ngồi lên ghế. Anh T ngồi trên ghế được một lúc thì lại tiếp tục ngã đập đầu xuống nền nhà, H đỡ anh T ngồi lại trên ghế nhưng anh T lại ngã xuống đất. Đến lần thứ ba, do nghĩ anh T say rượu nên H và mọi người để anh T nằm luôn trên nền nhà.

Đến 08 giờ ngày 04/7/2014, khi gia đình nhà anh T đến, thấy anh T đang nằm im trên nền hội trường thôn, đã thuê xe chở ra bệnh viện huyện K rồi chuyển lên bệnh viện đa khoa tỉnh Đăk Lăk cấp cứu. Do anh T bị chấn thương sọ não nặng nên gia đình xin chuyển đến bệnh viện C để cấp cứu. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, anh T chết trên đường đi cấp cứu.

Tại bản kết luận pháp y tử thi số: 290/PY-T.Th ngày 05/8/2014 và bản kết luận pháp y bổ sung số: 1190/PYBS ngày 28/11/2014 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Nguyên nhân tử vong của Nguyễn Hữu T là do chấn thương sọ não, vật tác động thuộc loại cứng, tày, diện rộng; nồng độ rượu trong máu: 4.30mmol/l.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số39/2018/HSST, ngày09/8/2018 Tòa án nhân dân huyện Krông Năng đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Viết H (S em) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt Lê Viết H 05 năm 06 tháng tù. Được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam và thời gian đã chấp hành án (theo Bản án số: 196/2016/HSPT ngày 09/6/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk), tổng cộng là 03 năm. Thời gian phạt tù còn lại bị cáo phải chấp hành là 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của các bị cáo và các đương sự.

Ngày 21/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng ban hành quyết định kháng nghị số: 01/QĐ-VKS-KNPT đề nghị HĐXX phúc thẩm đề nghị cấp phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo Lê Viết H.

Ngày 23/8/2018, bị cáo Lê Viết H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội củamình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu cũng như lờikhai của bị cáo  tại phiên tòa sơ  thẩm, tại cơ quan điều tra và vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm nêu trên chỉ xử phạt bị cáo Lê Viết H 05 năm 06 tháng tù là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo gây ra, thiếu tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội, bởi lẽ, khung hình phạt trong trường hợp này là năm năm đến mười lăm năm, trong khi đó hậu quả của hành vi do bị cáo H gây ra là hậu quả chết người, nhưng mức hình phạt mà Tòa sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo Lê Viết H chỉ 05 năm 06 tháng lại ở mức đầu khung của hình phạt; do đóđề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị của VKS nhân dân huyện Krông Năng, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo tăng hình phạt tù đối với bị cáo Lê Viết H xử phạt bị cáo từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo đã khai nhận: Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 03/7/2014, xuất phát từ việc anh Trương Quốc L phát hiện anh Nguyễn Hữu T trộm cắp sắt của nhà mình nên đã báo cho anh Lê Viết H là công an viên thôn đến giải quyết. Quá trình làm việc T không khai nhận hành vi trộm cắp của mình nên Lê Viết H đã có hành vi dùng tay túm tóc và tát nhiều cái vào mặt T. Quá trình làm việc T có biểu hiện mệt mỏi, buồn ngủ và T đã tự té xuống nền nhà, H đã đỡ nhưng T vẫn không ngồi được ở ghế mà tiếp tục té xuống nền nhà. Vì vậy, H để T nằm xuống nền nhà. Sáng hôm sau người nhà T đến, đưa T đi cấp cứu thì T bị chết trên đường đi. Nguyên nhân tử vong của Nguyễn Hữu T là do chấn thương sọ não, vật tác động thuộc loại cứng, tày, diện rộng.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-KNPT ngày 21/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo làngười có thân  nhân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, đã bồi thường cho gia đình bị hại và được gia đình bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm xong, bị cáo tiếp tục bồi thường cho bị hại và được gia đình người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là tình tiết mới. Do đó, kháng nghị đề nghị tăng hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng là không có cơ sở để chấp nhận.

[3] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáoHĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến tính mạng của anh Nguyễn Hữu T mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rằng, tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý được pháp luật quan tâm, bảo vệ, mọi hành vi xâm hại trái pháp luật đều bị trừng trị nghiêm khắc nhưng do ý thức coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác chỉ vì anh T không khai nhận có hành vi trộm cắp sắt của anh L và nội dung bản tự khai ghi không rõ ràng nên bị cáo đã bắt anh T viết đi viết lại nhiều lần bản tự khai và dùng vũ lực giật tóc, tát nhiều cái vào mặt anh T làm anh T bị thương tích, choáng váng, ngã đập đầu xuống nền nhà dẫn đến anh T tử vong do đó cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo để thể hiện tính răn đe của pháp luật. Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm bị cáo có cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới là “giấy nhận tiền”,tổng số tiền là 148.426.044 đồng trong đó tiền bồi thường: 83.426. 044 đồng , tiền cấp dưỡng nuôi các cháu: 65.000.000 đồng và gia đình người bị hại đề nghị hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.Vì vậy, cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo để giảm cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

[4]Về án phí hình sự phúc thẩm: Do được chấp nhận đơn kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 [1]. Căn cứ điêm a,b khoan 1 Điêu 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng nghị số: 01/QĐ-VKS-KNPT ngày 21/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng.

Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lê Viết H.

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2018/HSST, ngày 09/8/2018 Tòa ánnhân dân huyện Krông  Năng, tỉnh Đắk Lắk.

 [2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt: Áp dụng khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt Lê Viết H (S em) 05 (Năm) năm tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam và thời gian đã chấp hành án (theo Bản án số 196/2016/HSPT ngày 09/6/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk), tổng cộng là 03 năm. Thời gian phạt tù còn lại buộc bị cáo phải chấp hành là 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3].Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Viết H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

358
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 354/2018/HSPT ngày 07/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:354/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về