Bản án 35/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 35/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyn Trường T, sinh năm 1992; tại tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Số nhà 195, đường P, tổ 13, phường P, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh T1, sinh năm 1965 và bà Hoàng Thị V, sinh năm 1972; có vợ Chu Bảo H và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/3/2021 đến ngày 25/3/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Bình. (Trích xuất có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường T: Luật sư Phạm Văn H1 - Văn phòng luật sư Thái Bình - Đoàn Luật sư tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

 - Người chứng kiến:

1. Anh Trần Văn Q, sinh năm 1982 Nơi cư trú: Tổ 2, phường K, thành phố TB, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt)

2. Ông Phạm Mạnh H, sinh năm 1950 Nơi cư trú: Số nhà 04, tổ 11, phường Đ, thành phố TB, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 19/3/2021, Nguyễn Trường T đi từ nhà ra khu tập thể 3 đường P, thành phố NĐ, gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, tuổi, địa chỉ 100 viên ma túy tổng hợp (thuốc lắc) với giá 10 triệu đồng và 2 triệu đồng ma túy loại Ketamine. Mua xong, T đi xe ôm sang địa bàn tỉnh Thái Bình để bán ma túy. Đến khoảng 21 giờ ngày 19/3/2021, T đang đứng ở ven đường chân cầu TH thuộc thôn TH, xã Tân Lập, huyện VT, tỉnh Thái Bình bị Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình đến yêu cầu kiểm tra người do nghi có liên quan đến ma túy. Khi tiến hành kiểm tra, T tự nguyện lấy trong túi quần bên phải phía trước đang mặc giao nộp cho Cơ quan Công an 01 lọ thủy tinh hình trụ có nắp đậy màu trắng, bên ngoài thân lọ được dán bằng giấy có chữ ZAKA, bên trong chứa 100 viên ma túy loại MDMA, dạng viên nén màu hồng có tổng khối lượng 35,8539 gam niêm phong kí hiệu M1, 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ, bên trong có chứa ma túy loại Ketamine có khối lượng 6,6426 gam niêm phong kí hiệu M2. T khai tất cả số ma túy trên mang đi với mục đích tìm người mua để bán, nhưng chưa bán được thì bị Công an phát hiện bắt giữ. Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình đưa T cùng tang vật về trụ sở Công an xã Tân Lập, huyện VT lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và lập biên bản niêm phong vật chứng. Kiểm tra người T thu tại túi quần trái phía trước 01 điện thoại di động Iphone vỏ màu vàng đen. Ngày 19/3/2021, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Trường T, không phát hiện thu giữ tài sản, đồ vật gì.

Bản Kết luận giám định số 92/KLGĐMT-PC09 ngày 22/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, giám định vật chứng thu giữ của Nguyễn Trường T, kết luận: “Mẫu M1, gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 35,8539 gam; Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M2, gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 6,6426 gam”.

Bản cáo trạng số 40/CT-VKSTB ngày 31/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Trường T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Trường T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường T từ 15 (mười lăm) năm đến 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/3/2021; áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 lọ thủy tinh hình trụ có nắp màu trắng, thân lọ được dán bằng giấy có chữ ZAKA và số ma tuý thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Iphone vỏ màu vàng đen đã cũ; Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình.

Luật sư bào chữa cho bị cáo tranh luận: Nhất trí với tội danh, tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, điều luật đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và nuôi dạy con cái.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, Luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Trường T khai nhận: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 19/3/2021, tại khu vực chân cầu TH, thuộc thôn TH, xã Tân Lập, huyện VT, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Trường T cất giấu trái phép trong túi quần bên phải phía trước 01 lọ thủy tinh bên trong có chứa 100 viên ma túy, loại MDMA có khối lượng 35,8539 gam và 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ, bên trong chứa ma túy, loại Ketamine có khối lượng 6,6426 gam, mục đích đi bán kiếm lời, thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trường T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 21 giờ 30 phút ngày 19/3/2021 tại Trụ sở Công an xã Tân Lập, huyện VT, tỉnh Thái Bình; Biên bản tạm giữ, niêm phong đồ vật, tài liệu do Phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 22 giờ 45 phút ngày 19/3/2021; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 22 giờ 50 phút ngày 19/3/2021; Kết luận giám định số 92/KLGĐ-PC09 ngày 22/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình đối với vật chứng thu giữ của bị cáo là ma túy, Mẫu M1 loại MDMA, khối lượng 35,8539 gam; Mẫu M2 là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 6,6426 gam, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[4] Do đó có đủ cơ sở kết luận: Ngày 19/3/2021 bị cáo Nguyễn Trường T có hành vi cất giấu trái phép 35,8539 gam ma túy loại MDMA và 6,6426 gam ma túy loại Ketamine mục đích đi bán kiếm lời. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm mất trật tự trị an xã hội, là nguồn gốc lây nhiễm căn bệnh HIV - AIDS làm suy yếu sức khoẻ con người, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho đời sống kinh tế cũng như đạo đức xã hội và nguồn gốc phát sinh những loại tội phạm khác, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì hám lợi vẫn mua ma túy để bán, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng pháp luật.

Điều 251. Tội Mua bán trái phép chất ma túy.

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. … 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 05 kilôgam;

b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

c) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;

d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam; đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam; e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam;

g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít;

h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo do đó được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải cần cho bị cáo hưởng mức hình phạt ở mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ để cải tạo giáo dục bị cáo.

[7] Hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 251 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Bị cáo mua, bán ma túy mục đích kiếm lợi nhuận nên cần phạt tiền đối với bị cáo. Do bị cáo không có nghề nghiệp, hai con nhỏ, vợ chưa có việc làm nên chỉ buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung ở mức thấp nhất theo quy định của pháp luật.

[8] Vật chứng vụ án: Theo Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, số ma tuý thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ lưu hành và 01 lọ thủy tinh hình trụ có nắp màu trắng, thân lọ được dán bằng giấy có chữ ZAKA là công cụ, phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động Iphone vỏ màu vàng đen đã cũ không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[9] Bị cáo T khai mua ma túy của người phụ nữ khoảng 40 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực tập thể 3 tầng đường Phan Bội Châu, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Trường T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trường T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường T 15 (Mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/3/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Trường T 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ số ma túy hoàn lại sau giám định (34,4025 gam MDMA và 6,3478 gam Ketamine) được đựng trong 02 phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình hoàn trả mẫu vật sau giám định mặt trước ghi: Vật chứng quản lý của Nguyễn Trường T và 01 lọ thủy tinh hình trụ có nắp màu trắng, thân lọ được dán bằng giấy có chữ ZAKA.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Trường T 01 điện thoại Iphone vỏ màu vàng đen đã cũ.

Số vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận, bảo quản tang vật, tài sản thi hành án ngày 31/5/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình.

4. Án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Trường T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Trường T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:35/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về