Bản án 35/2021/HSST ngày 19/03/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 35/2021/HSST NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2021/TLST-HS ngày 24/02/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HS ngày 05/3/2021 đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Duy K, (tên gọi khác: K chó), sinh năm 1988 tại Đồng Nai. HKTT: Ấp L, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai.Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa Nghề nghiệp: không Học vấn: 5/12 Con ông: Không xác định.

Con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1967 Bị cáo là con duy nhất trong gia đình, chưa có vợ, con. Tiề n án: 05, cụ thể;

+ Ngày 09/3/2005, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/8/2005 tại trại giam Cây Cầy.

+ Ngày 28/9/2005, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 3/6/2006 tại trại giam Cây Cầy.

+ Ngày 23/10/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 2 năm 2 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 4/7/2008 tại trại giam Xuân Lộc.

+ Ngày 18/2/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 7 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/2/2015 tại trại giam Xuân Lộc.

+ Ngày 23/9/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/11/2018 tại trại giam Thủ Đức.

Tiền sự Không.

Nhân thân:

1/ Ngày 07/01/2003 bị Ủy ban nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian 24 tháng, Chấp hành xong ra trường ngày 14/01/2005 tại trường giáo dưỡng số 4.

2/ Ngày 18/11/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam.

Bị cáo bị bắt ngày 04/09/2020. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai (B5).

2/ Nguyễn Minh P, (tên gọi khác: Ba Gà), sinh năm 1991, tại Đồng Nai. HKTT: Ấp A, xã T, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa.

Nghề nghiệp: không; Học vấn: 4/12 Tiền án, tiền sự: không Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1966 Con bà Đoàn Thị H, sinh năm 1965 Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình, chưa có vợ con. Bị cáo tại ngoại.

* Bị hại:

1/ Chị Nguyễn Thị L, sinh năm: 1964 Địa chỉ: Số 13/5, ấp Lộc Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

2/ Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm: 1985 Địa chỉ: Xóm 7, khu 2, ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị Thu T, sinh năm: 1979 Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T tỉnh Đồng Nai.

(bị cáo K, bị cáo P có mặt, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Duy K là đối tượng nghiện ma túy và có 05 tiền án về tội Trộm cắp tài sản. Để có tiền sinh sống và tiêu xài nên K tiếp tục thực hiện các hành vi Trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài, cụ thể như sau:

+ Vụ thứ nhất: Vào khoảng 16 giờ 40 phút ngày 15/07/2020, K đang ở nhà tại ấp, xã T, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai thì thấy xe mô tô biển số 60AK-057.44 của bà Nguyễn Thị L để trước cửa nhà bên cạnh nhà K, trên xe có cắm sẵn chìa khóa nên K đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, Khánh đã lén lút dắt chiếc xe mô tô biển số 60AK-057.44 ra khỏi cổng rồi nổ máy chạy lên thị trấn Trảng Bom nhờ Nguyễn Mạnh H là bạn của K dẫn đến gặp chị Phạm Thị Thu T ngụ tại ấp T, xã B, huyện Trảng Bom để mượn số tiền 2.500.000 đồng, chị T yêu cầu K viết giấy nợ và để xe mô tô biển số 60AK-057.44 lại để làm tin. Sau khi có tiền, K và H đã mua ma túy sử dụng và tiêu xài hết số tiền trên.

Sau khi mất tài sản, chị L xem lại camera và phát hiện thấy K trộm cắp xe mô tô biển số 60AK-057.44 của mình nên đã trình báo công an xã T. Quá trình làm việc, K thừa nhận hành vi trộm cắp nêu trên nên Công an xã T lập hồ sơ bàn giao Nguyễn Duy K cùng vật chứng cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô hiệu BossCity biển số 60AK-057.44 kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe.

Theo Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom thì 01 xe mô tô hiệu BossCity biển số 60AK-057.44 trị giá 4.500.000 đồng.

+ Vụ thứ hai: Vào khoảng 07 giờ ngày 03/9/2020, Nguyễn Duy K đi bộ đến tiệm Internet “Đồng” thuộc ấp A, xã T huyện Trảng Bom để chơi game. Đến khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày thì K đi ra ghế đá bên hông tiệm ngồi chơi thì phát hiện nhà chị Hoàng Thị H (chủ tiệm Internet) không khóa nên K nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Kh đã lén lút vào nhà chị H trộm cắp 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo G40-70; 08 gói thuốc lá hiệu Jet; 01 con heo đất (bên trong không có tiền) và số tiền 5.020.000 đồng, do tài sản nhiều sợ bị phát hiện nên K bỏ con heo đất và 08 gói thuốc lá hiệu Jet lại dưới gầm ghế đá nhà chị H. Trên đường đem tài sản trộm cắp được đi tiêu thụ thì K gặp Nguyễn Minh P đang đi xe đạp trên đường, K đã nói cho P biết mới trộm cắp được tài sản và nhờ P chở đi trốn. P đã chở K đến nhà ông Hà Hữu H (là người quen của K) ở ấp B, xã T huyện Trảng Bom để xin tắm nhờ và được ông H đồng ý. K đưa cho P 320.000 đồng để nhờ P đi mua ma túy và card điện thoại về sử dụng, biết rõ số tiền trên do K trộm cắp mà có nhưng P vẫn sử dụng số tiền trên đi chơi game và tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh Nguyễn Tấn Đ (chồng chị Hoa) xem lại camera thì phát hiện K trộm cắp tài sản nên đã báo công an xã T. Công an xã T đã mời K làm việc, thu giữ vật chứng liên quan, lập hồ sơ chuyển giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo G40-70; số tiền 4.700.000 đồng thu giữ của K; 01 xe đạp hiệu Woobell và số tiền 320.000 đồng thu giữ của Nguyễn Minh P.

Theo Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom thì 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo G40-70 trị giá 3.500.000 đồng; 08 gói thuốc lá hiệu Jet trị giá 160.000 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Duy K và Nguyễn Minh Pg để điều tra. Quá trình điều tra các bị can thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKS-HS ngày 19/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo Nguyễn Duy K về tội “Trộm cắp tài sản” tại các điểm b, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, (sửa đổi bổ sung năm 2017) và truy tố bị cáo Nguyễn Minh P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự năm 2015, (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử.

* Áp dụng các điểm b, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K (Kh chó) từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 năm tù. Tổng hợp hình phạt với bản án đã bị xét xử buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

* Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 Điều 51 xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P (Ba gà) từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô hiệu BossCity biển số 60AK-057.44 cho chị Nguyễn Thị L; trả lại 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo G40-70 và số tiền 5.020.000 đồng cho anh Nguyễn Tấn Đồng.

Đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công đối với 01 xe đạp hiệu Woobell của Nguyễn Minh P sử dụng vào việc phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Phạm Thị Thu T yêu cầu bị can K trả lại số tiền 2.500.000 đồng chị T đã nhận cầm cố xe mô tô biển số 60AK-057.44 .

Đối với Nguyễn Mạnh H và chị Phạm Thị Thu Th khi giúp K đi mượn tiền và giữ chiếc xe mô tô biển số 60AK-057.44 lại làm tin nhưng không biết đó là tài sản do K trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý.

Đối với ông Hà Hữu H hiện nay không có mặt tại địa phương nên Cơ quan cảnh sát điều tra tách ra làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Duy K, Nguyễn Minh P và Nguyễn Mạnh H, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo Nguyễn Duy K, Nguyễn Minh P không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tố tụng: Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng khác:

Bị hại – anh Đ bà L người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – chị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, tuy nhiên trong hồ sơ đã có lời khai thể hiện rõ yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản của chị T. Do vậy, việc vắng mặt của anh Đ, bà L, chị T không ảnh hưởng đến việc xét xử không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[2.1] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Duy K, Nguyễn Minh P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng số 46/CT.VKS- HS ngày 19/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố, đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 15/7/2020 đến ngày 03/9/2020 trên địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Duy K đã có hành vi trộm cắp tài sản cụ thể như sau: Ngày 15/7/2020, Khánh trộm cắp của chị Nguyễn Thị L 01 xe mô tô hiệu BossCity biển số 60AK-057.44 (trị giá 4.500.000 đồng). Ngày 03/9/2020, K trộm cắp của gia đình anh Nguyễn Tấn Đ 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo G40-70 (trị giá 3.500.000 đồng); 08 gói thuốc lá hiệu Jet trị giá 160.000 đồng và số tiền 5.020.000 đồng. Tổng giá trị tài sản của các lần trộm cắp mà Khánh thực hiện là 13.180.000 đồng. Đối với Nguyễn Minh P biết được số tiền 320.000 đồng do K trộm cắp mà có nhưng vẫn thực hiện hành vi tiêu thụ số tiền trên.

[2.2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo Nguyễn Minh P biết rõ số tiền 320.000 đồng mà bị cáo Khánh đưa cho mình là tiền do trộm cắp mà có nhưng bị cáo P vẫn sử dụng vào việc tiêu xài cá nhân, do vậy hành vi của bị cáo P đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tội phạm và hình phạt được quy định khoản tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[2.3] Đối với bị cáo K là người đã có 05 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “có tính chất chuyên nghiệp” và “i phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thì thấy:

* Nhân thân: Bị cáo P là người có nhân thân tốt, bị cáo K là người có nhân thân xấu và đã 05 lần bị xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản”.

* Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo P không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo K có tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

* Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, ngoài ra bị cáo P phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do bị cáo P có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội mà xử phạt bị cáo cải tạo không giam giữ là đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[4] Về dân sự: Chị Phạm Thị Thu T yêu cầu bị cáo K trả lại số tiền 2.500.000 đồng mà chị T đã nhận cầm cố xe mô tô biển số 60AK-057.44 . Tại phiên tòa, bị cáo K đồng ý bồi thường số tiền trên cho chị T . Do vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Xử lý vật chứng:

+ Trả lại 01 xe mô tô hiệu BossCity biển số 60AK-057.44 cho chị Nguyễn Thị L ;

+ Trả lại 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo G40-70 và số tiền 5.020.000 đồng cho anh Nguyễn Tấn Đ .

+ Tịch thu sung công đối với 01 xe đạp hiệu Woobell của Nguyễn Minh P sử dụng vào việc phạm tội.

[6] Về tổng hợp hình phạt: Bị cáo Nguyễn Duy K đã bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử theo bản án số 248/2020/HSST ngày 18/11/2020, bị cáo không kháng cáo nên cần tổng hợp với hình phạt của tội đang bị xét xử. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điểm b, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) 

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy K (K Chó) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

 + Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy K (K chó) 03 năm tù, Tổng hợp hình phạt của tội đang bị xét xử với hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 248/2020/HSST ngày 18/11/2020, của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom. Buộc bị cáo Nguyễn Duy K phải chấp hành hình phạt chung là 05 năm 06 tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 04/9/2020).

- Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh P (Ba gà) phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh P (Ba gà) 09 tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

- Giao bị cáo Nguyễn Minh P cho Ủy ban nhân dân xã T , huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.

- Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Minh P Căn cứ các Điều 584; 585; 589 Bộ luật dân sự năm 2015 Buộc bị cáo Nguyễn Duy K (K chó) phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho chị Phạm Thị Thu T số tiền là 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày chị Phạm Thị Thu T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Nguyễn Duy K (K chó) chậm thi hành án đối với khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe đạp hiệu Woobell (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án huyện Trảng Bom)

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc các bị cáo Nguyễn Duy K (K chó) và Nguyễn Minh P (Ba gà) mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Kh phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí DSST.

Các bị cáo, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2021/HSST ngày 19/03/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:35/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về