Bản án 35/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 35/2021/HS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1964 tại Hải Phòng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 24/26/380 T, phường H, quận L, thành phố H; nơi ở: Thôn N, xã N, huyện C, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Vệt Nam; con ông Nguyễn Ngọc M và bà Hoàng Thị K (đều đã chết); chưa có vợ con; tiền sự, tiền án: không; nhân thân:

- Tại bản án HSST số 27 ngày 10/3/1995 TAND quận L xử phạt 18 tháng tù về tội Tổ chức dùng chất ma túy. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/5/1996;

- Tại bản án số 449/HSST ngày 20/11/1997, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 12 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 15 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 20 năm tù. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/6/2012, được đình chỉ nghĩa vụ thi hành án phí hình sự sơ thẩm và phạt tiền vào năm 2012 theo diện miễn giảm thi hành án theo quy định của Tòa án.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/12/2020 đến ngày 29/12/2020 chuyển tạm giam. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Ngọc V, Nguyễn Ngọc H, đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên khoảng 10 giờ 15 phút ngày 24/12/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu xanh mang BKS 36F6-7402 từ nhà ở thôn N, xã N, huyện C, thành phố H đến khu vực đường tàu B, quận N, H gặp và mua của một người phụ nữ (không quen biết) 01 túi nilon chứa ma túy đá giá 300.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cầm túi nilon đó cho vào túi áo mưa phía trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe đi về nhà. Khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi tới khu vực trước cửa nhà số 48 đường P, phường Đ, quận H, thành phố H thì bị cáo bị Tổ công tác Công an phường Đông Hải 1 kiểm tra hành chính, phát hiện túi áo mưa bên trái của bị cáo có 01 túi nilon màu trắng kích thước là 1,7 cm x 1,9 cm bên trong chưa tinh thể rắn, màu trắng. Bị cáo khai nhận đó là ma túy đá nên Tổ công tác đã thu giữ vật chứng và đưa bị cáo về trụ sở Công an phường Đông Hải 1 lập biên bản bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 73/KLGĐ-MT ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự CATP Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Ngọc V gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,24 gam, là loại: Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 19 tháng 5 năm 2021 của Vện kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Vện Kiểm sát nhân dân quận Hải An giữ quyền công tố luận tội:

Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Ngọc V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249 và điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy sau khi gửi giám định.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc V thừa nhận toàn bộ hành V như bản cáo trạng đã truy tố và nhất trí với bản luận tội của đại diện Vện Kiểm sát nhân dân quận Hải An. Trong lời nói sau cùng, bị cáo không có đề nghị gì với Hội đồng xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành V, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An, Điều tra Vên, Vện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, Kiểm sát Vên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành V, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành V, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp [2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, biên bản thu giữ tang vật và kết luận giám định thể hiện: Nguyễn Ngọc V đã có hành V mua ma túy rồi cất giấu với mục đích để sử dụng cho bản thân. Số ma túy thu giữ trên người Nguyễn Ngọc V qua giám định là Methamphetamine có khối lượng 0,24 gam. Methamphetamine là loại ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong đời sống xã hội, nằm trong Danh mục I, STT 9 ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận hành V của bị cáo Nguyễn Ngọc V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành V phạm tội: Hành V của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về Vệc cất giữ chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, nên cần xét xử nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân: Trước lần phạm tội này bị cáo có 02 tiền án đều liên quan đến ma túy đã được xóa án tích tuy nhiên điều này chứng tỏ bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 , Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt chính: Bị cáo có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên bị cáo là đối tượng nghiện ma túy. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại đã thu giữ sau giám định.

[10] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu xanh, mang BKS 36F6-7402, có số khung 5SD2-27544, số máy 52D2-27544 thu giữ của bị cáo, bị cáo khai là của người tên Hải (không rõ lai lịch, địa chỉ), người đứng tên đăng ký xe sau khi xác minh là Phạm Ngọc Liên; địa chỉ là An Lưu, Kinh Môn, Hải Dương. Xác minh tại địa chỉ này thì không có ai tên là Phạm Ngọc Liên nên chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe. Vậy, giao cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

[11] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo chưa xác định được lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc V 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/12/2020.

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Ngọc V.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1, Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư có dấu hiệu niêm phong số 73/MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng ngày 15/12/2020 có chữ ký của bị cáo (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20 tháng 5 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Ngọc V phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 35/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về