Bản án 35/2021/HSST ngày 15/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 35/2021/HSST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 39/2021/HSST ngày 26 tháng 04 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST-HS ngày 01/06/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trọng H, sinh năm 1997 Tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nam; Nơi đăng ký HKTT: Khu phố D, phường T, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ văn hóa: 08/12; Họ và tên bố: Nguyễn Trọng L , sinh năm 1970; họ và tên mẹ: Vi Thị Tr , sinh năm 1978; Vợ: Hà Ngọc L , sinh năm 1998 ở phường Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang (Không đăng ký kết hôn);Con: Hà Ngọc H , sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Chưa có;

- Nhân thân:

+ Ngày 09/4/2014, bị Công an phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, phạt tiền 750.000 đồng. H được Chủ tịch UBND phường Đồng Nguyên miễn chấp hành hình phạt tiền ngày 10/4/2014; Bản án số 80/2015/HSST ngày 04/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xử phạt H 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2016. Chấp hành xong tiền án phí và tiền sung quỹ Nhà nước ngày 01/3/2016; Bị cáo đầu thú, tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/03/2021. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công tỉnh Bắc Giang. (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1957 Địa chỉ: Thôn Cầu Đ , xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( vắng mặt)

- Người liên quan: Anh Nguyễn Văn Đ h, sinh năm 1983 Địa chỉ: Tổ dân phố S , thị trấn K , huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/3/2021, Nguyễn Trọng H, sinh năm 1997, ở khu phố D, phường T, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh bắt xe từ tỉnh Bắc Ninh lên nhà bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1957 (là bà ngoại của H) ở thôn C, xã Q, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang chơi và H ở tại đó. Khoảng 19 giờ ngày 20/3/2021, khi bà Th đang ăn cơm ở dưới bếp thì H ăn xong trước đi lên tầng hai, đi vào phòng ngủ của bà Th. H thấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A02S, màu xanh- đen của bà Th đang để trên gối ở đầu giường nên H đã nảy ý định trộm cắp chiếc điện thoại này, H lấy chiếc điện thoại rồi xuống nhà, mở cổng đi tìm nơi tiêu thụ. H đi bộ dọc theo đường Quốc lộ 1A hướng đi Lạng Sơn - Hà Nội, đến ngã 5 thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, H vào cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại Đ ở tổ dân phố S , thị trấn K , huyện C. Tại đây, H có gặp anh Nguyễn Văn Đ , sinh năm 1983 (là chủ cửa hàng), H đã đặt vấn đề bán chiếc điện thoại vừa trộm cắp của bà Th cho anh Đ. Anh Đ đồng ý mua với giá 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm nghìn đồng). Số tiền bán điện thoại trộm cắp, H đã sử dụng để lên tỉnh Sơn La và tiêu xài cá nhân hết.

Cùng ngày 20/3/2021, bà Nguyễn Thị Th làm đơn trình báo gửi đến Công an xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang. Ngày 26/3/2021, H đến Công an xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 41/KL-HĐĐGTS ngày 26/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang, kết luận:

“01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A02S; màu xanh-đen mua mới ngày 23/02/2021; cũ đã qua sử dụng có giá 2.700.000 đồng”. (BL: 14).

Đối với chiếc điện thoại di động anh Đ đã mua của H, anh Đ khai sau khi mua chiếc điện thoại đã bán cho người khách không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Th không yêu cầu H phải bồi thường. Về tình tiết tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã ra đầu thú.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Trọng H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 35/CT-VKS-LG, ngày 26/04/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và trình bày: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra trình bày: bị cáo là cháu ngoại của bà, bà không yêu cầu bị cáo phải bồi thường .

Người liên quan vắng mặt tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của những người liên quan tại cơ quan điều tra.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang phát biểu lời luận tội đối với bị cáo, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Đề nghị HĐXX xử phạt Nguyễn Trọng H từ 06 tháng đến 09 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 26/03/2021.

Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo phải chịu tiền án phí HSST và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, tình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Nội dung vụ án: Khoảng 19 giờ ngày 20/3/2021, tại nhà bà Nguyễn Thị Th ở thôn Cầu Đ , xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Giang, Nguyễn Trọng H có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A02S màu xanh - đen, trị giá 2.700.000đ là tài sản của bà Th . Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, phù hợp với không gian, thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội.Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ khả năng nhận Th và điều chỉnh hành vi của mình. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố để cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát huyện Lạng Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là đối tượng lười lao động, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu là thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền ăn tiêu, bị cáo thực hiện hành vi một cách liều lĩnh, chỉ vì lợi ích cá nhân đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, xâm phạm trực tiếp đến quyền về tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong nội bộ quần chúng nhân dân.

[4]. Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo trước khi phạm tội có nhân thân xấu bị cáo 01 lần bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, 01 lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản. Chứng tỏ việc giáo dục, cải tạo bị cáo của những bản án trước không đủ sức răn đe bị cáo, thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc, bằng pháp luật hình sự, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ tính dăn đe bị cáo và mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo ra đầu thú, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong năm tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Lạng Giang có chiều hướng gia tăng, bị cáo là đối tượng lười lao động, đi lang thang, không có việc làm, nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh tại địa phương thể hiện bị cáo không có nghề nghiệp, bị cáo không có tài sản tại địa phương nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7]. Đối Đối với anh Nguyễn Văn Đ là người đã mua chiếc điện thoại do H trộm cắp nhưng anh là tài sản do H trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý đối với anh Định.

Đối với chiếc điện thoại di động anh Định đã mua của H, anh Đ khai sau khi mua chiếc điện thoại đã bán cho người khách không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

[8]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

[1]Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 136, §iÒu 331; §iÒu 333; Điều 336; Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 08 ( Tám ) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/03/2021.

[3]. Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí HSST.

[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2021/HSST ngày 15/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:35/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về