Bản án 35/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 35/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 11/2021/TLST - HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021. Giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị Ngọc H, sinh năm: 1992; địa chỉ: ấp Vĩnh Thành, xã Vĩnh Thạnh, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm: 1990; địa chỉ: ấp Vĩnh Thành, xã Vĩnh Thạnh, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/12/2020 và quá trình giải quyết vụ kiện nguyên đơn chị Hà trình bày:

Chị và Anh Phạm Văn H do mai mối mới quen biết nhau, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Thạnh, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình chung sống giữa chị và anh H không có hạnh phúc thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp tánh tình, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh H không quan tâm đến công việc làm ăn trong gia đình và bản tính thô lỗ, cọc cằn thường xuyên ngược đãi hành hạ, đánh đập chị. Mặc dù đã nhiều lần cố gắng khắc phục, anh H cũng hứa sẽ thay đổi bản thân nhưng đến nay vẫn không sửa đổi, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc.

Chị và anh H có một con chung là Phạm Đoàn Thiên Phú, sinh ngày: 24/8/2018, hiện đang chung sống cùng với chị Hà.

Về tài sản và nợ chung: Không có.

Nay chị Hà khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với Anh Phạm Văn H

Về con chung: Chị Hà yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng cháu Phú, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 10/02/2021, biên bản hòa giải ngày 26/02/2021 và quá trình giải quyết vụ kiện bị đơn anh H trình bày:

Anh H xác định lời trình bày của Chị Đoàn Thị Ngọc H về hôn nhân, con chung, tài sản và nợ chung là đúng.

Anh H thừa nhận trong thời gian chung sống anh và chị Hà cũng có khi không phù hợp tánh tình, bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến cự cải với nhau, trong lúc nóng giận anh có đánh chị Hà, bản thân anh đã biết sai và sẽ cố gắng sửa đổi.

Nay chị Hà khởi kiện yêu cầu được ly hôn thì anh không đồng ý, anh yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho anh và chị Hà được đoàn tụ về chung sống với nhau để chăm lo cho con.

Nếu chị Hà cương quyết xin ly hôn thì anh yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết:

Về con chung: Anh H yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con là Phạm Đoàn Thiên Phú, sinh ngày: 24/8/2018, không yêu cầu chị Hà phải cấp dưỡng nuôi con Về tài sản và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Hà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Hnên đây là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – xin ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh H là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Chị Hà có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 15/3/2021. Anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị Hà và anh H theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự

[2] Về nội dung:

- Xét về hôn nhân: Chị Hà và anh H kết hôn với nhau vào năm 2014, trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Thạnh, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Do vậy việc kết hôn của anh, chị đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Do đó khi có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng luật Hôn nhân gia đình năm 2014 để giải quyết.

Xét về mâu thuẫn giữa chị Hà và anh Hai, lúc đầu chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà các cặp vợ chồng thường mắc phải nhưng anh, chị không tìm hiểu nguyên nhân từ đâu để khắc phục, tháo gỡ mà để cho mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng, dẫn đến chị Hà khởi kiện yêu cầu xin được ly hôn với anh Hai. Từ khi thụ lý vụ kiện Tòa án tiến hành mời hai bên hòa giải động viên anh, chị bỏ qua những mâu thuẫn nhỏ để tiếp tục đoàn tụ chung sống với nhau nhưng chị Hà cương quyết xin ly hôn vì anh cho rằng anh H không quan tâm đến công việc làm ăn trong gia đình và bản tính thô lỗ, cọc cằn thường xuyên ngược đãi hành hạ, đánh đập chị nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc, còn anh H cũng thừa nhận việc anh có đánh chị Hà. Hội đồng xét xử xét thấy quá trình chung sống giữa anh, chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài mà không thể tự hòa giải với nhau, đồng thời anh, chị cũng đã nhiều lần khắc phục mâu thuẫn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Nay chị Hà cương quyết xin ly hôn chứ không đồng ý chung sống với anh H nữa. Từ những cơ sở nhận định và phân tích trên cho thấy mâu thuẫn giữa chị Hà và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc. Do đó, chị Hà yêu cầu được ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần được chấp nhận.

- Về con chung: Chị Hà và anh H xác định anh, chị có một con chung là Phạm Đoàn Thiên Phú, sinh ngày: 24/8/2018. Trong quá trình giải quyết vụ án chị Hà và anh H đều yêu cầu xin được quyền nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Phú.

Xét yêu cầu nuôi con của chị Hà là có cơ sở chấp nhận- Bởi lẽ theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình thì: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha, mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Trong khi đó cháu Phạm Đoàn Thiên Phú, sinh ngày: 24/8/2018 đến nay chỉ mới 31 tháng 6 ngày tuổi và chị Hà cũng đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Do đó Hội đồng xét xử nghị nên giao cháu Phú cho chị Hà tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu sau này anh H xét thấy chị Hà không chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phú được tốt thì anh H có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xin thay đổi quyền nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

Chị Hà không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

Anh H có quyền đến thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai có quyền cản trở.

Về tài sản và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Hà và anh H đều xác định không có.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hà yêu cầu xin ly hôn nên phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005838 ngày 12/01/2021 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, khoản 3 Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Chị Đoàn Thị Ngọc H được ly hôn với Anh Phạm Văn H

2. Về con chung: Giao con chung Phạm Đoàn Thiên Phú, sinh ngày:24/8/2018 cho Chị Đoàn Thị Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành (trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật). Anh Phạm Văn H có quyền đến thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai có quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đoàn Thị Ngọc H không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về tài sản và nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn Chị Đoàn Thị Ngọc H phải nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005838 ngày 12/01/2021 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

Số hiệu:35/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về