TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 35/2020/HS-PT NGÀY 03/03/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 03 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ L số: 08/2020/HS-PT ngày 02 tháng 01năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Xuân H và các đồng phạm, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 43/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Xuân H; sinh ngày: 02/02/1964; nơi sinh: xã Gia H, huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: lao động tự do; nơi cư trú: thôn Bắc Trung S, xã Gia Hanh, huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh; trình độ văn hóa: 08/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân L và bà Nguyễn Thị L (đã mất); vợ: Lê Thị T (đã mất); con: 03 đứa (lớn sinh năm 1984, nhỏ sinh năm 1988); tiền án: không; tiền sự: 01 tiền sự, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 19 ngày 05/9/2019 của Công an huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt tiền 2.000.000đ về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; nhân thân: Bản án số 13/2013/HSST ngày 28/6/2013 của TAND huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt tiền 8.000.000đ về tội “Đánh bạc” (đã được xóa án tích), Quyết định xử phạt hành chính số 25 ngày 24/4/2017 của Công an huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt tiền 2.000.000đ về hành vi đánh bạc; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/9/2019, đến ngày 13/9/2019 được chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
2. Lê Duy S; sinh ngày: 08/10/1975; nơi sinh: xã Gia H, huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: lao động tự do; nơi cư trú: thôn Nghĩa S, xã Gia H, huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Duy V và bà Nguyễn Thị T; vợ Nguyễn Thị H; con: 05 đứa (lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 13/2013/HSST ngày 28/6/2013 của TAND huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” (đã được xóa án tích), Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 47 ngày 24/12/2015 của Công an huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt tiền 1.000.000đ về hành vi đánh bạc; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/9/2019, đến ngày 13/9/2019 được chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Thị L; sinh ngày: 20/10/1967; nơi sinh: xã Nam T, huyện Nam Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; nơi cư trú: thôn Đông K, xã Trung L, huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim M (đã mất) và bà Nguyễn Thị S; chồng: Lê Văn P; con: 04 đứa (lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 2009); tiền án: không; tiền sự: 01 tiền sự, Quyết định xử phạt hành chính số 04 ngày 09/7/2019 của Công an huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt tiền 1.000.000đ về hành vi đánh bạc; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/9/2019, đến ngày 13/9/2019 được chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
4. Nguyễn Thị P; sinh ngày: 10/11/1981; nơi sinh: xã Trung L, huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: làm ruộng; nơi cư trú: thôn Đình C, xã Trung L, huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nư; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Trần Thị T; chồng Lê Duy H (không đăng ký kết hôn); con: 02 đứa (lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2008); tiền án: không; tiền sự: 01 tiền sự; quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 05 ngày 09/7/2019 của Công an huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt tiền 1.500.000đ về hành vi đánh bạc; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/9/2019 đến ngày 13/9/2019 thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 11/9/2019, Nguyễn Xuân H đến nhà của Lê Duy S (ở thôn Nghĩa S, xã Gia Hanh, huyện Can Lộc) chơi, đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày thì Trần Văn L cùng Nguyễn Thị P cũng đến nhà S. Sau đó, H gọi S đang ngủ trong nhà dậy nhằm mục đích rủ đánh bài ăn tiền. H đi ra phòng khách nhà S nói với Nguyễn Thị L (đã ở nhà S trước đó), Lâm và P chuẩn bị đi theo H để đánh bạc. Ít lâu sau H, S, L, P, L, T đến nhà của chị Nguyễn Thị H ở cùng thôn để đánh bạc. S và L mỗi người đưa 02 bộ bài tú lơ khơ giữa chiếu bạc. Biết được ý định đánh bạc của H nên anh T đã đứng dậy ra về. H liền chia bộ bài lại thành 04 phần cho H, S, L và P đánh bạc theo hình thức đánh “liêng”. Sau khi H, S, L và P đánh được 05 ván bạc thì P thua hết số tiền 300.000đ mang theo nên không đánh nữa, đứng dậy đi ra ngoài. Lâm vào ngồi chỗ của P để lại để đánh bạc.
Tổng số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc là 7.950.000đ. Trong đó, số tiền sử dụng để đánh bạc của H là 2.500.000đ, của S là 850.000đ, của L là 400.000đ, của P là 300.000đ, của L là 3.900.000đ. Đến khoảng 15 giờ 15 phút cùng ngày, khi H, S, L và L đã đánh được khoảng 07 ván bạc thì bị Công an huyện Can L phát hiện, bắt quả tang.
Ngoài hành vi đánh bạc cùng với Nguyễn Xuân H, Lê Duy S, Nguyễn Thị P, Trần Văn L vào ngày 11/9/2019, Nguyễn Thị L còn tham gia 01 vụ đánh bạc khác vào khoảng từ 13 giờ đến 15 giờ 15 phút ngày 26/8/2019 cùng với Võ Đức T, Trần Đình N tại nhà của chị Võ Thị L ở thôn Minh T, xã Trung L, huyện Can L, theo hình thức đánh bài “phỏm”. Số tiền sử dụng để đánh bạc của L lần này là 400.000đ, của T là 550.000đ, của N là 700.000đ. Đến khoảng 15 giờ 15 phút ngày 26/8/2019 thì bị Công an huyện Can L phát hiện và lập biên bản xử L vi phạm hành chính đối với L, T và N.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2019/HS-ST ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân H, Lê Duy S, Nguyễn Thị L, Trần Văn L, Nguyễn Thị P phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 11/9/2019). Xử phạt bổ sung bị cáo H số tiền:12.000.000đ.
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Lê Duy S 07 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 11/9/2019). Xử phạt bổ sung bị cáo S số tiền:11.000.000đ (khấu trừ số tiền 12.000.000đ bị cáo S đã nhờ chị Nguyễn Thị Hồng là vợ của bị cáo nộp thay tại Biên lai thu tiền số 0001460, ngày 20/11/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Can Lộc, trả lại cho bị cáo S số tiền 1.000.000đ).
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 08 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 11/9/2019). Xử phạt bổ sung bị cáo L số tiền:12.000.000đ.
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Thị P 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ (từ ngày 11/9/2019 đến ngày 13/9/2019). Xử phạt bổ sung bị cáo P số tiền:10.000.000đ. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Trần Văn L 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 tháng. Xử phạt bổ sung bị cáo Lâm số tiền:11.000.000đ.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên xử L vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 29/11/2019, bị cáo Nguyễn Thị L làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 02/12/2019, bị cáo Nguyễn Thị P làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 03/12/2019, bị cáo Nguyễn Xuân H và Lê Duy S làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết, vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nội dung kháng cáo của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS, xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm:
[2] Về nội dung:
Căn cứ vào lời khai của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 15 giờ đến 15 giờ 20 phút ngày 11/9/2019, tại nhà chị Nguyễn Thị H (ở thôn Nghĩa S, xã Gia Hanh, huyện Can L), Nguyễn Xuân H , Lê Duy S, Nguyễn Thị L, Trần Văn L và Nguyễn Thị P đã có hành vi đánh bài ăn tiền theo hình thức đánh liêng. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 7.950.000đ, trong đó H sử dụng 2.500.000đ, S sử dụng 850.000đ, L sử dụng 400.000đ, Lâm sử dụng 3.900.000đ, P sử dụng 300.000đ.
Ngoài ra từ khoảng 13 giờ đến 15 giờ 15 phút ngày 26/8/2019, tại nhà chị Võ Thị L (ở thôn Minh T, xã Trung L, huyện Can L), Nguyễn Thị L, Trần Đình N và Võ Đức T đã có hành vi đánh bài ăn tiền theo hình thức đánh phỏm. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 1.650.000đ trong đó, L sử dụng 400.000đ, Thắng sử dụng 550.000đ, Ngân sử dụng 700.000đ. Hành vi này của L đánh bạc trái phép tuy dưới 5.000.000đ nhưng bị cáo trước đó đã có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc nên hành vi này của bị cáo cũng phạm vào tội “Đánh bạc”. Với các hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh đã xét xử các bị cáo Nguyễn Xuân H, Lê Duy S, Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị P về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản L công cộng được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, nên cần phải xử L nghiêm trước pháp luật.
Bị cáo H với vai trò là người khởi xướng việc đánh bạc trái phép, nhằm sát phạt bằng tiền với các bị cáo khác nên bị cáo phải có mức án cao nhất trong số các bị cáo. Các bị cáo L, S, P đều tham gia đánh bạc cùng bị cáo H nên cần phải có hình thức xử phạt nghiêm đối với các bị cáo này, ngoài ra bị cáo L còn thêm 01 lần phạm tội đánh bạc vào ngày 26/8/2019.
Quá trình xét xử tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Do đó, mức án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là đúng pháp luật, đủ tính răn đe và phòng ngừa chung, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, HĐXX không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như vị đại diện Viện KSND tỉnh Hà Tĩnh đề nghị.
[4] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSPT theo quy định của pháp luật do kháng cáo không được chấp nhận.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thị L, Lê Duy S, Nguyễn Thị P.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 43/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Can L, tỉnh Hà Tĩnh.
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thị L, Lê Duy S, Nguyễn Thị P phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 11/9/2019).
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Lê Duy S 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 11/9/2019). Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 11/9/2019).
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Thị P 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ (từ ngày 11/9/2019 đến ngày 13/9/2019).
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản L và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án buộc các bị cáo Nguyễn Xuân H, Nguyễn Thị L, Lê Duy S, Nguyễn Thị P, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 35/2020/HS-PT ngày 03/03/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 35/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về