Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 146/2020/TLSTHNGĐ ngày 02/7/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Sùng Thị T, sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1983

Địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Vng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/6/2020, bản tự khai ngày 02/7/2020 và trong quá trình xét xử thì chị Sùng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 24/12/2003 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến giữa năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, khi mâu thuẫn xảy ra gia đình hai bên đã tham gia khuyên bảo hòa giải nhiều lần, nhưng anh chị vẫn không khắc phục được mâu thuẫn, mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Do không khắc phục được mâu thuẫn nên anh chị đã tự sống ly thân từ tháng 9/2013 và không còn quan tâm thăm hỏi đến nhau. Nay xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Minh Đ.

Về con chung: Chị Sùng Thị T xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Nguyễn Minh Đ có một con chung là cháu Nguyễn Hữu L, sinh ngày 02/10/2004, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường, hiện cháu đang ở cùng chị. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hữu L đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh Nguyễn Minh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Sùng Thị T xác nhận trong thời gian chung sống, vợ chồng chị có tạo dựng được một số tài sản chung, trị giá không lớn, khi ly hôn chị thỏa thuận tự chia nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ: Chị Sùng Thị T xác nhận trong thời gian chung sống, vợ chồng chị không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi ý kiến người chưa thành niên ngày 14/7/2020 cháu Nguyễn Hữu L có nguyện vọng được mẹ đẻ là chị Sùng Thị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Đi với anh Nguyễn Minh Đ, trong quá trình giải quyết vụ án vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng anh Đức vẫn không có văn bản trả lời ý kiến và không có mặt theo giấy triệu tập.

Về việc cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng cứ về nhân thân, địa chỉ thường trú, chứng cứ chứng minh việc có đăng ký kết hôn và có con chung, chứng cứ chứng minh mâu thuẫn của vợ chồng, chứng cứ chứng minh về công việc và thu nhập cá nhân. Bị đơn không cung cấp tài liệu chứng cứ gì, Tòa án đã có văn bản yêu cầu bị đơn cung cấp chứng cứ chứng minh công việc và thu nhập của bản thân, song bị đơn vẫn không cung cấp.

Đi với vụ án này Toà án không tiến hành hoà giải được về quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng chăm sóc con chung. Vì anh Nguyễn Minh Đ đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Toà án đã tiến hành lập biên bản về việc anh Đ vắng mặt để giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật Tố tụng: Chị Sùng Thị T có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với anh Nguyễn Minh Đ (địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai). Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Bị đơn anh Nguyễn Minh Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh là phù hợp với quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Sùng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 24/12/2003 tại ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến giữa năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo trình bày của chị T đã được chính quyền địa phương xác nhận là đúng sự thực, tại phiên toà chị Sùng Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh Nguyễn Minh Đ. Đối với anh Nguyễn Minh Đ vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh Đức không có mặt và cũng không có văn bản trả lời. Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng chị T anh Đ đã thực sự trầm trọng, anh chị đã sống ly thân không quan tâm đến nhau từ cuối năm 2013 đến nay, nên việc chị T xin ly hôn anh Đ là có căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Sùng Thị T ly hôn anh Nguyễn Minh Đ

[3] Về con chung: Quá trình chung sống chị Sùng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ có một người con chung cháu Nguyễn Hữu L, sinh ngày 02/10/2004, hiện cháu đang ở cùng chị T. Tại phiên tòa chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hữu L, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của chị T, Hội đồng xét xử xét thấy cháu Nguyễn Hữu L hiện đang ở cùng chị T. Trong quá trình giải quyết vụ án chị Sùng Thị T đã cung cấp cho Tòa án chứng cứ chứng minh công việc của chị ở địa phương là buôn bán mức thu nhập bình quân từ 6.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng/tháng. Anh Nguyễn Minh Đ không cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ nào. Vì vậy để đảm bảo cuộc sống ổn định của cháu, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu và nguyện vọng của cháu, Hội đồng xét xử xét thấy cần căn cứ Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình giao cháu Nguyễn Hữu L cho chị Sùng Thị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, chị Sùng Thị T không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Trong thời gian chung sống chị Sùng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ có tạo dựng được một số tài sản chung trị giá không lớn, khi ly hôn chị thỏa thuận tự chia nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về công nợ chung: Trong thời gian chung sống chị Sùng Thị T và anh Nguyễn Minh Đ không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Sùng Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử cho chị Sùng Thị T ly hôn anh Nguyễn Minh Đ

2.Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Hữu L, sinh ngày 02 tháng 10 năm 2004 cho chị Sùng Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Minh Đ không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh Nguyễn Minh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Sùng Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0002473 ngày 02/7/2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về