Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 12/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 12 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 142/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 554/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 654/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Anh T, sinh năm 1993; nơi đăng ký thường trú hộ khẩu thường trú: Số 22B/113/96 C, phường D, quận L, H; chỗ ở: Số 3/55/111 Đ, phường Đ, quận N, H; có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1985; nơi cư trú: Số 22B/113/96 C, phường D, quận L, H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 19 tháng 4 năm 2020 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Anh T trình bày:

Chị và anh Phạm Ngọc T xây dựng gia đình với nhau từ năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, tự tìm hiểu, được gia đình hai bên đồng ý, có tổ chức hỏi cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào ngày 04/01/2013. Đến nay vợ chồng có hai con chung.

Quá trình chung sống: Vợ chồng chung sống hòa T, hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách và quan điểm sống giữa hai bên thay đổi, không còn phù hợp với nhau, anh T thường xuyên chửi bới, đánh đập chị T vô cớ. Đã nhiều lần anh T đánh chị T có bố mẹ anh T và hàng xóm chứng kiến, đã khuyên giải anh T nhưng anh không thay đổi. Mâu thuẫn kéo dài khiến chị T rất sợ hãi, đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2019, chị T cùng con nhỏ ra thuê nhà trọ sinh sống. Tháng 12 năm 2019, chị T và anh T đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng được T tình tình ly hôn. Sau khi Tòa án thụ lý việc yêu cầu của anh chị, Tòa án hòa giải chị T đã rút đơn, cho anh T thêm cơ hội để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên, vợ chồng vẫn tiếp tục sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không còn khả năng đoàn tụ, chị Nguyễn Thị Anh T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Phạm Ngọc T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Phạm Chấn P, sinh ngày 18/01/2016 và Phạm Nguyễn Hà M, sinh ngày 07/8/2018. Nay ly hôn chị T có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cháu Phạm Nguyễn Hà M, đề nghị anh T tiếp tục nuôi cháu Phạm Chấn P đến khi các con thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và triệu tập anh Phạm Ngọc T đến Tòa án làm việc vào các ngày 05/6/2020 và ngày 19/6/2020. Tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án anh T đều đã nhận được nhưng anh T không đến Tòa án làm việc và không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào ngày 07/7/2020.

Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ với đại diện gia đình anh Phạm Ngọc T và đại diện chính quyền địa phương nơi anh T chị T chung sống được biết: Quá trình chung sống vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã và xô xát. Mâu thuẫn vợ chồng đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2019, chị T cùng con gái đã chuyển ra ngoài sinh sống, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó đến nay. Gia đình đã hòa giải và khuyên bảo anh chị nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị T xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung: Chị T và anh T có hai con chung là Phạm Chấn P, sinh ngày 18/01/2016 và Phạm Nguyễn Hà M, sinh ngày 07/8/2018, nếu anh chị ly hôn, đại diện gia đình anh T đề nghị Tòa án giao con Phạm Chấn P cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Phạm Nguyễn Hà M cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con thành niên. Về tài sản chung, đại diện gia đình anh T cho biết vợ chồng anh chị không có tài sản gì chung.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử thấy rằng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Chị T và anh T kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn vì vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, hiện tại đã sống ly thân nhau, không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Nguyễn Thị Anh T được ly hôn anh Phạm Ngọc T; về con chung: Đề nghị giao con chung Phạm Chấn P, sinh ngày 18/01/2016 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Nguyễn Hà M, sinh ngày 07/8/2018 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có quy định khác theo quy định của pháp luật, không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của chị T và anh T; về tài sản chung: Chị T không có yêu cầu nên đề nghị HĐXX không xem xét; về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Đây là vụ án tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; theo đơn khởi kiện, trình bày của đương sự thể hiện: Anh Phạm Ngọc T hiện đang sinh sống tại: Số 22B/113/96 C, phường D, quận L, thành phố H. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Bị đơn anh Phạm Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và đã được tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, do vậy HĐXX căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Phạm Ngọc T.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Anh T và anh Phạm Ngọc T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào ngày 04/01/2013, đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp.

[4] Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2019 chị T đã chuyển ra ngoài sinh sống. Tháng 12 năm 2019 anh T và chị T đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh chị được T tình ly hôn, sau khi Tòa án hòa giải chị T đã rút đơn cho anh T thêm cơ hội để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên sau thời gian đó, anh T không có bất cứ động thái gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn của anh chị không giải quyết được mà tình trạng vợ chồng sống ly thân vẫn kéo dài đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ anh Phạm Ngọc T đến Tòa án làm việc nhiều lần nhưng anh T đều không đến và không có ý kiến trình bày về quan điểm của mình, qua đó cho thấy anh T cũng không muốn níu kéo và hàn gắn tình cảm với chị T. Đồng thời qua các tài liệu xác minh thu thập chứng cứ đã xác nhận cuộc sống chung giữa anh T và chị T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã do bất đồng quan điểm sống, cách sống. Vợ chồng luôn xảy ra bất hoà, mất đi tiếng nói chung, cuộc sống gia đình không còn hạnh phúc. Từ tháng 6 năm 2019 đến nay vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không còn sự chia sẻ, quan tâm đến nhau. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh T trên thực tế đã không còn, mâu thuẫn thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Bởi vậy chị T yêu cầu được ly hôn anh T là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Phạm Chấn P, sinh ngày 18/01/2016 và Phạm Nguyễn Hà M, sinh ngày 07/8/2018. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi anh chị sống ly thân đến nay, cháu P ở cùng bố và cháu M ở cùng mẹ. Vì vậy việc chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con Phạm Nguyễn Hà M, đề nghị anh T tiếp tục nuôi dưỡng con Phạm Chấn P là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế, phù hợp với nguyện vọng của đại diện gia đình anh T và phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết và anh T cũng không có ý kiến gì nên HĐXX không đặt ra vấn đề giải quyết.

[7] Về tài sản chung:Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

- Về án phí:

[8] Chị Nguyễn Thị Anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Anh T và anh Phạm Ngọc T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Phạm Chấn P, sinh ngày 18/01/2016 cho anh Phạm Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Nguyễn Hà M, sinh ngày 07/8/2018 cho chị Nguyễn Thị Anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Anh T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị T đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0013901 ngày 29 tháng 4 năm 2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 12/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về