Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 10/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ  

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 10 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 83/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1990. (Có mặt)

Địa chỉ: Khu vực X2, phường T, quận M, thành phố Cần Thơ. 

Bị đơn: Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1992. (Vắng mặt) 

Địa chỉ: Khu vực X2, phường T, quận M, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/02/2020 và quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Lê Thị Mỹ H trình bày:

Năm 2013, chị và anh Nguyễn Thành L sau một thời gian tìm hiểu đã tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thới Long, quận Ô Môn vào ngày 01/10/2014.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc từ khi cưới đến đầu 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, bất hòa về tình cảm nên thường hay cãi nhau. Chị đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, anh L bỏ về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng ly thân đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Lê Ngọc N (nữ, sinh ngày 14/8/2015). Chị H yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N đến trưởng thành, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ đối với bị đơn anh Nguyễn Thành L để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng anh L nhiều lần vắng mặt không có lý do. Do đó, vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử công khai.

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Bị đơn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Lê Thị Mỹ H và anh Nguyễn Thành L tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, có phát sinh mâu thuẫn nên chị H khởi kiện ly hôn. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Thành L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Chị H và anh L tiến tới hôn nhân năm 2013, đến năm 2014 thì đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn.

Tại phiên tòa, chị H cho rằng mâu thuẫn vợ chồng chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, bất hòa về tình cảm nên vợ chồng thường hay cãi nhau dẫn đến hôn nhân không hạnh phúc. Chị và anh L đã ly thân từ ngày 30/4/2019 đến nay, thỉnh thoảng anh L có tới thăm con nhưng vợ chồng không hàn gắn tình cảm được. Nay chị H xác định đã không còn tình cảm với anh L nên chị yêu cầu được ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc triệu tập anh L đúng trình tự luật định để tham gia tố tụng tại tòa và có ý kiến đối với hôn nhân của mình nhưng phía anh L nhiều lần vắng mặt không lý do. Điều đó cho thấy anh L đã không còn thiết tha gì đến cuộc hôn nhân này, mâu thuẫn giữa các đương sự đã thực sự trầm trọng và cho đến nay không có biện pháp khắc phục, mục đích hôn nhân cũng không đạt được. Do vậy, yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh L là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị H và anh L có 01 con chung tên Nguyễn Lê Ngọc N (nữ, sinh ngày 14/8/2015). Chị H yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N đến trưởng thành.

Xét thấy, từ trước đến nay, chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu N. Do đó, nhằm tránh làm xáo trộn, ảnh hưởng đến cuộc sống của cháu N, Hội đồng xét xử thiết nghĩ cần ổn định cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N đến trưởng thành là phù hợp.

Mặc dù anh L không trực tiếp nuôi con nhưng pháp luật dành cho anh L quyền được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung; không ai được ngăn cản anh L thực hiện quyền này.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, hiện nay chị H đang có công việc và thu nhập ổn định, đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng con chung nên chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là sự tự nguyện của đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Do anh L vắng mặt nên chưa xác định được phần tài sản chung và nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết tài. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu số tiền 300.000 đồng theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều:

- Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51; 56; 57; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Mỹ H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Mỹ H được ly hôn với anh Nguyễn Thành L.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Lê Ngọc N (nữ, sinh ngày 14/8/2015) cho chị Lê Thị Mỹ H nuôi dưỡng đến trưởng thành, anh Nguyễn Thành L không cấp dưỡng nuôi con.

Anh L được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản anh L thực hiện quyền này.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Mỹ H phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chuyển số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 010888 ngày 28/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn thành án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 10/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về