Bản án 35/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2019 tại Nhà văn hóa xã Đông Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (địa chỉ: Thôn 6, xã Đông Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Trƣơng Hữu T, sinh ngày 01/01/1994; nơi sinh: tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn T, xã, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/4/2019 đến ngày 24/4/2019 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình theo Lệnh tạm giam số 18 ngày 24/4/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp.(Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Trương Mỹ P, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Tổ A, phường T, thành phố T, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)

- Người làm chứng:

+ NLC 1 (Vắng mặt)

 + NLC 2 (Vắng mặt).

- Người chứng kiến:

+ NCK (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 22/4/2019, tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp tiến hành tuần tra, khi đến cây xăng Hải Hà số 18, thuộc thôn Tân Hạ, xã Quang Sơn phát hiện Trương Hữu T và một nam thanh niên lạ mặt đang đứng cạnh xe mô tô biển kiểm soát 35B2-180.26 trước Cửa hàng xăng dầu Hải Hà có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đến gần yêu cầu kiểm tra, người nam thanh niên lạ mặt bỏ chạy ra khu vực phía sau của cây xăng Hải Hà, Trương Hữu T chấp hành việc kiểm tra. Quá trình kiểm tra T khai nhận bản thân là người sử dụng ma túy và dùng tay phải lấy từ túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 điện thoại di động Samsung màu vàng có bọc ốp màu đen, sau đó T dùng tay phải gỡ chiếc ốp điện thoại và lấy ra từ vị trí kẽ giữa mặt sau điện thoại và ốp điện thoại 01 túi nilon màu trắng, có viền xanh ở một đầu, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. T khai nhận đó là túi ma túy T mang theo để sử dụng cho bản thân. Tại chỗ tổ công tác đã tiến hành thu giữ và niêm phong theo quy định của pháp luật. Tổ công tác đưa Trương Hữu T về Công an xã Quang Sơn tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tiến hành mở niêm phong cân xác định chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trương Hữu T có khối lượng là 0,31 gam kí hiệu M và gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 141/KLGĐ-PC09-MT ngày 24/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3093 (không phẩy ba nghìn không trăm chín mươi ba) gam là ma túy, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy thuộc danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 16/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Trương Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trương Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm r, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trương Hữu T từ 13 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 22/4/2019. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,2043 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong ban đầu; các phong bì niêm phong, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 bật lửa ga; 01 ống thủy tinh dạng tẩu dài 11cm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, chị Trương Mỹ P trình bày: Ngày 22/4/2019 T có mượn xe của chị để đi làm. Việc T sử dụng xe của chị để đi mua ma túy về sử dụng thì chị không biết.

Trong quá trình điều tra, NLC 1 trình bày: Ngày 22/4/2019 ông nhìn thấy người nam thanh niên khai tên là T, sau đó Thành tự lấy từ túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 điện thoại di động Samsung màu vàng có bọc ốp màu đen, sau đó dùng tay gỡ chiếc ốp điện thoại và lấy ra từ vị trí kẽ giữa mặt sau điện thoại và ốp điện thoại 01 túi nilon màu trắng, T khai nhận là túi ma túy đá.

Trong quá trình điều tra, NLC 2 trình bày: Ngày 22/4/2019 có nhìn thấy hai nam thanh niên đang đứng cạnh xe mô tô biển kiểm soát 35B2-180.26 trước cửa hàng xăng dầu Hải Hà, khi các anh công an đã đến gần hai người nam thanh niên này và yêu cầu kiểm tra, một người nam thanh niên bỏ chạy ra khu vực phía sau của cây xăng Hải Hà còn một người đứng lại chấp hành việc kiểm tra.

Trong quá trình điều tra, NCK trình bày: Ông chứng kiến việc công an kiểm tra Trương Hữu T, công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và các hoạt động của công an đều được lập thành biên bản.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến;

 vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số 141/KLGĐ-PC09-MT ngày 24/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 22/4/2019 Trương Hữu T có hành vi cất giữ trái phép 0,3093gam là ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm...c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”;

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Trương Hữu T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Trương Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ngoài ra, bị cáo đã tự giác lấy ma túy từ vị trí kẽ giữa mặt sau điện thoại và ốp điện thoại giao nộp cho công an là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[5] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 35B2-180.26; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô, qua xác minh là tài sản hợp pháp của chị Trương Mỹ P cho Trương Hữu T mượn. Việc T sử dụng xe mô tô của chị P có liên quan đến việc T cất giữ ma túy để sử dụng, chị P không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 35B2-180.26; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô cho chị P là đúng pháp luật.

Đối với số tiền 6.010.000 đồng; 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 ví da màu nâu, 01 điện thoại Sam sung bên trong có 01 sim điện thoại Viettel; 01 sim điện thoại Vinaphone; 01 ốp nhựa màu đen là tài sản, đồ vật hợp pháp của Trương Hữu T, không liên quan đến hành vi phạm tội. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã trả lại số tài sản, đồ vật, giấy tờ trên cho bị cáo Trương Hữu T thông qua chị Quách Thị D (vợ của bị cáo T – người được bị cáo T ủy quyền) là đúng pháp luật.

Về 0,2043 gam Methamphetamine còn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong ban đầu; các phong bì niêm phong, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 bật lửa ga; 01 ống thủy tinh dạng tẩu dài 11cm đều không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

(Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 6 năm 2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình).

[8] Về nguồn gốc ma túy: Trương Hữu T khai là do anh C, trú tại: xã Q, thành phố T, tỉnh Ninh Bình đi mua ma túy đưa cho T cất giữ để sử dụng. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, hiện C không có mặt ở địa phương. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tách tài liệu liên quan đến Trần Đình C để tiến hành xác minh và xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Xử phạt: Bị cáo Trương Hữu T 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 22/4/2019.

 2. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì giấy dán kín niêm phong, bên trong có 01 vỏ túi nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì giấy.

+ 01 phong bì giấy dán kín niêm phong, bên ngoài ghi số 141/KLGĐ-PC09-MT, bên trong có 0,2043 gam chất dạng tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu ký hiệu M là ma túy, loại Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong ban đầu.

+ 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong điện thoại di động và tiền thu giữ của Trương Hữu T; 01 bật lửa ga; 01 ống thủy tinh dạng tẩu dài 11cm.

(Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 6 năm 2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trương Hữu T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về