Bản án 35/2019/HS-ST ngày 11/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HG NG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 11 tháng 10 năm 2019 tại: Hội trường Ủy ban nhân dân xã Hưng Xá, huyện Hg ng, tỉnh Nghệ An. Tòa án nhân dân huyện Hg ng, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1, Lương H Cnh, tên gọi khác: không; sinh ngày: 28 tháng 8 năm 1999, tại: Xã N Ph, huyện N Đ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 7, xã N Ph, huyện N Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lương Hữu Toàn; con bà: Hoàng Thị Lợi; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/6/2019 đến ngày 02/7/2019 bị tạm giam cho đến nay. Có mặt.

2, Lê V Cng, tên gọi khác: không; sinh ngày: 08 tháng 6 năm 2000, tại: Xã N Ph, huyện N Đ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 3, xã N Ph, huyện N Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn Hải; con bà: Phạm Thị Tiến; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/6/2019 đến ngày 02/7/2019 bị tạm giam cho đến nay. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trịnh Đăng Thư; sinh năm: 1968; nơi cư trú: Số nhà 169 đường Phạm Hồng Thái, khối 1, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 26/6/2019, Lương H Cnh và Lê V Cng đang ở phòng trọ tại phường Hưng Dũng, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thì lên cơn nghiện ma túy nên cùng nhau bàn bạc mua ma túy về để sử dụng. Cảnh lấy điện thoại di động Iphone 5 của Cảnh ra và gọi điện cho một người đàn ông mà Cảnh chỉ biết số điện thoại di động không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể của người đó. Cảnh nói: "Anh có đồ đó không để cho em ba trăm nghìn" (ý Cảnh muốn hỏi: có ma túy không bán cho Cảnh ba trăm nghìn đồng). Người đàn ông đó nói có và đồng ý bán ma túy cho Cảnh. Do không có tiền nên Cảnh đã cùng với Cương điều khiển xe máy Exciter mang BKS 37M1- 700.40 đi đến tiệm cầm đồ của ông Trịnh Đăng Thư ở phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An cầm cố chiếc máy điện thoại Iphone 5 của Cảnh để lấy 400.000đ. Sau đó, Cảnh lấy sim từ máy điện thoại di động vừa cầm cố lắp vào máy điện thoại di động của Cương rồi gọi điện cho người đàn ông đó nói: "Anh ở mô". Người đàn ông nói "Đến ngã tư cầu vượt đèn xanh, đèn đỏ chờ anh 5 phút". Cảnh tiếp tục chở Cương đến Cầu vượt xã Hưng Thịnh, huyện Hg ng đứng chờ. Chờ một lúc vẫn không thấy người đàn ông đó gọi lại, Cảnh tiếp tục gọi thì người đàn ông đó nói: “Xuống cầu Gãy”. Cảnh và Cương hỏi đường rồi đi đến khu vực Cầu Gãy thuộc địa phận xóm 1, xã Hưng Phúc, huyện Hg ng. Khi đi qua Cầu Gãy, Cảnh và Cương gặp người đàn ông đó. Người này dẫn Cảnh và Cương đi ra giữa cánh đồng gần đó rồi lấy một gói ma túy đá đưa lên chỗ Cảnh và Cương đang đứng. Người đàn ông mở gói ma túy đá đang cầm ra và san qua một gói bao potylen màu trong suốt có kích thước là 3x2,5cm rồi đưa số gói ma túy đã được san ra cho Cương cầm và hỏi: “Tiền mô”. Cảnh lấy trong người ra 300.000đ đưa cho người đàn ông đó. Sau khi mua được ma túy, Cương điều khiển xe mô tô chở Cảnh đi về. Trên đường về, do đang điều khiển xe mô tô nên Cương đưa gói ma túy vừa mua được cho Cảnh. Cảnh cầm gói ma túy bỏ vào trong mép ống quần ngố bên trái Cảnh đang mặc. Khi đi đến đoạn đường thuộc địa phận xóm 1, xã Hưng Phúc, huyện Hg ng thì phát hiện có tổ công tác Công an huyện Hg ng tuần tra. Vì sợ hãi nên Cương điều khiển xe bị ngã, gói ma túy để trong mép ống quần ngố bên trái của Cảnh bị rơi ra trên mặt đường ngay phía sau xe máy của Cương thì bị tổ công tác Công an huyện Hg ng phát hiện, lập biên bản thu giữ và niêm phong gói ma túy nêu trên. Tổ công tác đã thu của Cảnh 01 (một) tờ hợp đồng cầm đồ ngày 26/6/2019, thu giữ của Cương 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, bên trong có số thuê bao 0889.730706 đã qua sử dụng; 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đỏ đen, BKS 37M1- 700.40 và đưa Cảnh và Cương về Cơ quan Công an huyện Hg ng để điều tra, làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 963/KL-PC09(MT) ngày 01/7/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận “Mẫu chất tinh thể dạng rắn thu giữ của Lương H Cnh và Lê V Cng gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamin). Chất tinh thể dạng rắn thu giữ của Lương H Cnh và Lê V Cng có khối lượng là 0,565 gam”.

Cáo trạng số 34/CT-VKS-HS ngày 05/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hg ng, tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo Lương H Cnh và Lê V Cng về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa các bị cáo Lương H Cnh và Lê V Cng đã khai nhận hành vi mà bị cáo thực hiện vào chiều ngày 26/6/2019 giống như nội dung bản cáo trạng và nội dung vụ án như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lương H Cnh và Lê V Cng phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Lương H Cnh và bị cáo Lê V Cng mỗi bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn Công an huyện Hg ng, Nghệ An được niêm phong bên trong có chứa chất tinh thể dạng rắn được giám định là ma túy. Trả lại cho bị cáo Lương H Cnh một tờ hợp đồng cầm đồ lập ngày 26/6/2019. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: một điện thoại di động Nokia 105 màu đen, bên trong có số thuê bao 0889.730.706, đã qua sử dụng.

Các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Hg ng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định tội danh:

Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai tại phiên tòa của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 16 giờ ngày 26/6/2019, kết luận giám định số 963/KL-PC09 ngày 01/7/2019 và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để kết luận: Vào lúc 16 giờ ngày 26/6/2019 tại địa phận xóm 1, xã Hưng Phúc, huyện Hg ng các bị cáo Lương H Cnh và Lê V Cng đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói potylen màu trong suốt bên trong có chứa chất tinh thể dạng rắn.

Căn cứ vào kết luận giám định số 963/KL-PC09 (MT) ngày 01/7/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An thì: Mẫu chất tinh thể dạng rắn thu giữ của Lương H Cnh và Lê V Cng gửi tới giám định là Methamphetamin có khối lượng là 0,565 gam (Không phẩy năm trăm sáu mươi lăm gam).

Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nên hành vi tàng trữ trái phép 0,565 gam ma túy (Methamphetamin) nhằm mục đích sử dụng của các bị cáo đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hg ng, tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm:

Đây là vụ án đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Vụ án trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và chế độ quản lý đặc biệt đối với việc tàng trữ chất ma túy. Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không chịu cai nghiện và tu dưỡng bản thân mà lại lao vào con đường phạm tội. Hành vi tàng trữ 0,565 gam ma túy (Methamphetamin) của các bị cáo nhằm mục đích sử dụng là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Đánh giá vai trò, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo:

Vai trò thứ nhất trong vụ án thuộc về bị cáo Lương H Cnh. Bị cáo là người trực tiếp giao dịch với người bán ma túy để mua 0,565 gam ma túy (Methamphetamin) với mục đích sử dụng và là người cầm cố chiếc điện thoại di động của mình để lấy tiền mua ma túy.

Vai trò thứ hai cũng là vai trò cuối cùng trong vụ án thuộc về bị cáo Lê V Cng. Bị cáo đã cùng với bị cáo Cảnh đi mua 0,565 gam ma túy về để sử dụng.

Vì vậy, cần lên mức hình phạt tương xứng với mức độ, hành vi và vai trò của từng bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này khi Hội đồng xét xử lượng hình phạt.

Xét thấy, mặc dù các bị cáo không có tình tiết tiết tăng nặng nào nhưng cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục và cải tạo các bị cáo. Mức án mà Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa hôm nay là phù hợp và nghiêm minh nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản. Gia đình bị cáo Lương H Cnh thuộc diện hộ cận nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (là hình phạt tiền) đối với các bị cáo.

[6]. Đối với người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo. Cơ quan CSĐT Công an huyện Hg ng đã tiến hành điều tra nhưng không xác định được người này, nên không có căn cứ để xử lý.

[7]. Về vật chứng: Vật chứng vụ án là:

- 01 (một) phong bì công văn Công an huyện Hg ng, Nghệ An được niêm phong đúng quy định.

- 01 tờ hợp đồng cầm đồ mang tên Lương H Cnh lập ngày 26/6/2019;

- 01 (một) điện thoại di động Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng.

Xét thấy: Phong bì niêm phong dán kín bên trong là chất tinh thể dạng rắn, được giám định là Methamphetamin. Đây là vật chứng bị Nhà nước cấm tàng trữ trái phép nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Đối với tờ hợp đồng cầm đồ lập ngày 26/6/2019 cần trả lại cho bị cáo Lương H Cnh theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Chiếc điện thoại di động Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng. Đây là chiếc điện thoại mà các bị cáo dùng để giao dịch việc mua bán ma túy. Theo lời khai của bị cáo chiếc điện thoại vẫn đang còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[8]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015.

1.Tuyên bố các bị cáo Lương H Cnh và Lê V Cng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

2. Xử phạt: Bị cáo Lương H Cnh 18 (Mười tám) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 26/6/2019.

Xử phạt: Bị cáo Lê V Cng 15 (Mười lăm) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 26/6/2019.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn Công an huyện Hg ng, Nghệ An được niêm phong đúng quy định, mặt trước phong bì có ghi hàng chữ viết: "Gói niêm phong vật chứng thu giữ của Lương H Cnh (1999) và Lê V Cng (2000) đều trú tại xã N Ph, huyện N Đ, tỉnh Nghệ An vào ngày 26/6/2019 tại xóm 1, xã Hưng Phúc, huyện Hg ng, Nghệ An. Sau khi mở niêm phong cân xác định khối lượng lấy mẫu gửi đi giám định và niêm phong lại".

Trả lại cho bị cáo Lương H Cnh: 01 tờ hợp đồng cầm đồ lập ngày 26/6/2019;

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen, bên trong có số thuê bao 0889.730.706, đã qua sử dụng.

(Đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập hồi 15 giờ ngày 11/9/2019 giữa Công an huyện Hg ng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hg ng).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc các bị cáo Lương H Cnh và Lê V Cng mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 11/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Nguyên - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về