Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 01/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 202/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975; HKTT: Ấp S, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972; HKTT: Ấp S, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn đề ngày 24/6/2019, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn (bà L) trình bày:

Bà L và ông T chung sống với nhau từ năm 1992, hôn nhân tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền.

Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Do ông T quan hệ với người phụ nữ khác và kiếm chuyện chửi bới vợ con. Nên cuộc sống hôn nhân giữa bà L và ông T không còn tình cảm, không có hạnh phúc. Vì vậy, bà L xin ly hôn với ông T.

- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Thị N, sinh ngày 02/7/1994; Nguyễn Thị H, sinh ngày 02/9/1995 và Nguyễn Duy T1, sinh ngày 11/09/2003. Hai con chung tên Nguyễn Thị N và Nguyễn Thị H đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết, về con chung tên Nguyễn Duy T1 thì bà yêu cầu nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, bà không có ý kiến gì khác.

* Theo bản tự khai ngày 22/7/2019; quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn (ông T) trình bày:

Ông T thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về quá trình chung sống, kết hôn và con chung.

- Về hôn nhân: Trước yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thì ông T không đồng ý ly hôn.

Đặt trường hợp ly hôn thì:

- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Thị N, sinh ngày 02/7/1994; Nguyễn Thị H, sinh ngày 02/9/1995 và Nguyễn Duy T1, sinh ngày 11/09/2003. Hai con chung tên Nguyễn Thị N và Nguyễn Thị H đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết, về con chung tên Nguyễn Duy T1 thì tùy ý con quyết định theo ba hoặc mẹ.

- Về tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự thủ tục, người tham gia tố tụng đúng thành phần. Phiên tòa được tiến hành đúng trình tự. Nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị L khởi kiện ông Nguyễn Văn T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Ông T có nơi cư trú tại ấp S, xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông T chung sống với nhau từ năm 1992, hôn nhân tự nguyện có tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền. Tuy hai bên chung sống tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền là đã vi phạm vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình dẫn đến quan hệ vợ chồng của bà L và ông T không được pháp luật công nhận. Do đó, Hội đồng xét xử không công nhận bà L và ông T là vợ chồng.

[3] Về con chung: Bà L và ông T có 03 con chung tên Nguyễn Thị N, sinh ngày 02/7/1994; Nguyễn Thị H, sinh ngày 02/9/1995 và Nguyễn Duy T1, sinh ngày 11/09/2003. Hai con chung tên Nguyễn Thị N và Nguyễn Thị H đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về con chung tên Nguyễn Duy T1 thì bà L yêu cầu nuôi cháu T1 và ông T thì theo ý kiến của cháu T1. Tòa án đã tiến hành hỏi ý kiến của cháu T1 thì cháu T1 có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần giao cháu T1 cho bà L chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

[5] Tài sản chung, nợ chung: Bà L không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng là phù hợp nên chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào các Điều 9, 14, 53, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với ông Nguyễn Văn T về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Duy T1, sinh ngày 11/09/2003.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị L không yêu cầu ông Nguyễn Văn T cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị L chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà L đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0031683 ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 01/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về