Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 15/05/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 35/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 371/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2017, về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị Thu N, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Ấp K, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. “Có mặt”

Bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm: 1973.

Địa chỉ: Tổ X, Ấp A, xã B, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/8/2017 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Phan Thị Thu N trình bày:

Về hôn nhân: Bà Phan Thị Thu N và ông Nguyễn Minh T kết hôn vào năm 2003, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, không bị ai ép buộc, được hai bên gia đình đồng ý, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai ngày 31/10/2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai được 02 năm thì chuyển đến thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, đến năm 2009 thì vợ chồng lại chuyển về thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sinh sống. Từ khi kết hôn thì vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp nhau do bà N muốn sống ổn định tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, còn ông T muốn chuyển về sống tại xã B, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nên vợ chồng không có quan điểm chung về nơi ở và thường xuyên xảy ra xung đột lẫn nhau. Năm 2014, ông T chuyển hẳn về sinh sống tại xã B, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho đến nay. Nay, bà N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng và không thể trở về đoàn tụ sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà Phan Thị Thu N và ông Nguyễn Minh T không có con chung.

Về tài sản và nợ chung: Bà Phan Thị Thu N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – ông Nguyễn Minh T vắng mặt trong quá trình tố tụng.

Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án số 371/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2017 và các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải đối với ông Nguyễn Minh T, đồng thời triệu tập ông T nhiều lần để ông T đến Tòa án làm việc, nhưng ông T vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định pháp luật. Đối với các đương sự, nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không chấp hành đúng quy định, nên xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Phan Thị Thu N được ly hôn ông Nguyễn Minh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Bà Phan Thị Thu N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1973 có nơi cư trú tại xã B, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về việc vắng mặt của đương sự: Ông Nguyễn Minh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất ngày 26/4/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai ngày 15/5/2018, ông Nguyễn Minh T vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Minh T theo luật định.

[3]. Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 78, quyển số 02/2003, ngày 31/10/2003 của Ủy ban nhân dân xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai, xác định hôn nhân của bà Phan Thị Thu N và ông Nguyễn Minh T là hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, không thống nhất được với nhau về chỗ ở, bà N muốn sống ổn định tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, còn ông T muốn chuyển về sống tại xã B, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Do bất đồng trong cuộc sống, nên hai bên đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay, không còn quan hệ gì về mặt kinh tế cũng như tình cảm. Nay, bà N xác định tình cảm vợ chồng giữa bà và ông T không còn, không thể đoàn tụ chung sống với ông T, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông T. Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân của bà Phan Thị Thu N và ông Nguyễn Minh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận cho bà Phan Thị Thu N ly hôn ông Nguyễn Minh T theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà Phan Thị Thu N và ông Nguyễn Minh T không có con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản và nợ chung: Bà Phan Thị Thu N không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Bà Phan Thị Thu N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Phan Thị Thu N được ly hôn ông Nguyễn Minh T.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Bà Phan Thị Thu N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005395 ngày 10 tháng 8 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà Phan Thị Thu N đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 15/05/2018 về ly hôn

Số hiệu:35/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về