Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 03/08/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 35/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 03 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân xét xử công khai vụ án thụ lý số: 84/2018/TLST-HN&GĐ ngày 18 tháng 4 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2018/QĐXXST-HN&GĐ ngày 18 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Thị N, sinh năm 1986.

Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1976.

Địa chỉ: ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị N và anh V vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bảng tự khai ngày 18/4/2018, nguyên đơn chị Thị N trình bày như sau:

Vào năm 2007, chị Thị N và anh Nguyễn Văn V tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, nhưng không có đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng lúc đầu hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp tính tình và chị N đã ly thân với anh V khoảng 03 năm nay.

Về con chung: Chị N trình bày chị và anh V có hai người con chung là cháu Nguyễn Văn Chừng, sinh ngày 17/8/2007 và cháu Nguyễn Thị Thúy Vy, sinh ngày 22/3/2013. Hiện tại cháu Chừng đang sống chung với anh V, cháu Vy đang sống chung với chị N. Chị N xác định chị yêu cầu nuôi cháu Nguyễn Thị Thúy Vy, sinh ngày 22/3/2013 và chị không yêu cầu cấp dưỡng cho cháu Vy. Còn cháu Nguyễn Văn Chừng thì chị đồng ý giao cho anh V nuôi và chị không phải cấp dưỡng cho cháu Chừng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/4/2018, bị đơn anh Nguyễn Văn V trình bày như sau:

Vào năm 2007, anh V và chị Thị N tự nguyện tiên tới hôn nhân, nhưng không có đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng phát sinh Nều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm nên anh V và chị N đã ly thân nhau khoảng 03 năm nay. Nay, chị N yêu cầu được ly hôn thì anh V đồng ý.

Về con chung: Anh V trình bày anh và chị N có hai người con chung là cháu

Nguyễn Văn Chừng, sinh ngày 18/8/2007 và cháu Nguyễn Thị Thúy Vy, sinh ngày 22/3/2013. Hiện tại cháu Chừng đang sống chung với anh V, cháu Vy đang sống chưng với chị N. Anh V xác định anh yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Văn Chừng, sinh ngày 18/8/2007 và anh không yêu cầu cấp dưỡng cho cháu Chừng, còn cháu Nguyễn Thị Thúy Vy thì anh đồng ý giao cho chị N nuôi và anh không phải cấp dưỡng cho cháu Vy.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. thì nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa ngày hôm nay, nguyên đơn và bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Thị N và anh Nguyễn Văn V là vợ chồng;

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Văn Chừng, sinh ngày 17/8/2007 cho anh V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Thúy Vy, sinh ngày 22/3/2013 cho chị Thị N nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Chị N và anh V không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N và anh V được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản;

3. Về quan hệ tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Thị N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn V. Xét thấy chị N và anh V chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định. Do đó căn cứ khoản 7 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Nguyễn Văn V có nơi đăng ký thường trú và đang sinh sống tại ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, chị Thị N và an Nguyễn Văn V vắng mặt nhưng chị N và anh V có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2007, giữa chị Thị N và anh Nguyễn Văn V có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc nhưng đến nay không có đăng ký kết hôn. Theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. chị N và anh V đã sống chung với nhau từ năm 2007 nhưng đến nay vẫn không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định. Quá trình chung sống giữa chị N và anh V phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên chị N yêu cầu được ly hôn với anh V.

Do đó áp dụng Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử không công nhận giữa chị Thị N và anh Nguyễn Văn V là vợ chồng.

[5] Về con chung: Qúa trình chung sống, chị Thị N và anh Nguyễn Văn V đều xác định giữa chị N và anh V có 02 người con chung là cháu Nguyễn Văn Chừng, sinh ngày 18/8/2007 và cháu Nguyễn Thị Thúy Vy, sinh ngày 22/3/2013. Hiện tại cháu Chừng đang sống chung với anh V còn cháu Vy thì đang sống chung với chị N. Chị N và anh V đều thống nhất giao cháu Nguyễn Văn Chừng cho anh V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và chị N không phải cấp dưỡng cho cháu Chừng. Giao cháu Vy cho chị N nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và anh V không phải cấp dưỡng cho cháu Vy. Bên cạnh đó, tại bảng tự khai ngày 26/4/2018 thì cháu Chừng có nguyện vọng được theo sống chung với anh V nên tiếp tục giao cháu Chừng cho anh V nuôi dưỡng và chị N không phải cấp dưỡng nuôi cháu Chừng. Tiếp tục giao cháu Vy cho chị N nuôi dưỡng và anh V không phải cấp dưỡng nuôi cháu Vy.

[6] Về tài sản chung: Chị N và anh V không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Thị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 9, 14, 15, 53, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Thị N và anh Nguyễn Văn V là vợ chồng.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Văn Chừng, sinh ngày 11/8/2007 cho anh Nguyễn Văn V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Thúy Vy, sinh ngày 22/3/2013 cho chị Thị N nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N và anh V không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N và anh V được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Chị Thị N và anh Nguyễn Văn V không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị N đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005725 ngày 18/4/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 03/08/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:35/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về