Bản án 347/2021/HSST ngày 23/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 347/2021/HSST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 286/2021/TLST-HS ngày 11/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 321/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Thời Nghi K (tên gọi khác: Tư K), sinh năm 1977, tại tỉnh K; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: Tổ 4, khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; Nơi ở hiện nay: Như trên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn):12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ:

Không; Con ông: Nguyễn Thời H, sinh năm 1947 (đã chết) và bà Trần Thị L, sinh năm 1953; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Có vợ là Bùi Ánh D, sinh năm 1980 và có 01 người con sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 28/3/2006, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà xử phạt 04 (bốn) tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 180/2006/HSST. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 17/11/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 1507 ngày 25/11/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Bị cáo đang giam giữ tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa - Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thời Nghi K và Phạm Hoàng T (sinh năm 1991, ngụ tại 60/2, khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đ) đều là người sử dụng trái phép chất ma tuý. Quá trình sử dụng ma tuý, T biết được bị cáo K có nguồn ma tuý để bán nên vào khoảng 10 giờ ngày 12/11/2020, T sử dụng điện thoại có gắn số sim số thuê bao 0933289835 gọi điện thoại cho bị cáo K để mua 01 (một) gói ma tuý tổng hợp (hàng đá) với giá 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) thì được bị cáo K đồng ý, sau đó K liên lạc qua mạng xã hội facebook với đối tượng tên M (không rõ họ tên, lai lịch) có tên tài khoản là “M nhóc” để mua 01 gói ma tuý tổng hợp của M và hẹn T đến khu vực khu phố 3, phường T để nhận ma tuý, sau đó ngày 13/11/2020, T đã đến điểm hẹn và được M giao số ma tuý trên, sử dụng hết. Đến ngày 16/11/2020, T bị Công an phường Tân Mai, thành phố Biên Hoà bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Quá trình khai báo, T đã khai nhận về hành vi mua bán của K nêu trên. Đến ngày 17/11/2020, K đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà bắt khẩn cấp, khởi tố, điều tra, xử lý.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (Gói) ma tuý tổng hợp (hàng đá), bị cáo mua bán cho T, T đã sử dụng hết nên không thu hồi được;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen (số Imei:354204109209973) tạm giữ của bị cáo K, không sử dụng vào việc phạm tội;

- 01 (Một) điện thoại di động Redmi 7 (số Imei: 863863040656479), có gắn sim số thuê bao 0968737277, là tài sản của bị cáo K đã sử dụng để thực hiện tội phạm;

- 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Nouvo, biển số 60X2-2807, tạm giữ của bị cáo K, là tài sản của chị Bùi Thị B, em vợ của bị cáo K, cho K mượn để sử dụng và không sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã trả cho chị B.

 Tại Bản Cáo trạng số 308/CT-VKSBH ngày 06 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Thời Nghi K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh nêu trên; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau:

+ Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo K thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

+ Tình tiết tăng nặng: Không có.

Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ: 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sau) tháng tù giam.

Bị cáo K không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, do đó các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thời Nghi K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cụ thể: Vào ngày 13/11/2020, bị cáo K liên hệ với đối tượng tên M (không rõ nhân thân, lai lịch) qua mạng xã hội Facebook và thông qua đối tượng tên M để bán 01 gói ma tuý tổng hợp (hàng đá) cho Phạm Hoàng T với giá 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng). Trong đó, T đã chuyển số tiền 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) qua tài khoản Momo cho bị cáo K và 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) giao trực tiếp cho M ngay sau khi nhận ma tuý tại khu vực khu phố 3, phường T, thành phố B thì bị phát hiện, khởi tố, điều tra xử lý.

Xét thấy, lời khai của bị cáo K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng là Phạm Hoàng T, biên bản đối chất, biên bản kiểm tra điện thoại, biên bản hỏi cung và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

Từ những phân tích trên, xét thấy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Thời Nghi K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Do đó, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

- 01 (Một) gói ma tuý tổng hợp (hàng đá), bị cáo mua bán cho T, T đã sử dụng hết nên không thu hồi được;

- Trả cho bị cáo K 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen (số Imei:354204109209973), do không liên quan đến việc phạm tội;

- Tịch thu sung công quỹ 01 (Một) điện thoại di động Redmi 7 (số Imei:863863040656479), có gắn sim số thuê bao 0968737277, là tài sản của bị cáo K đã sử dụng để thực hiện tội phạm;

- 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Nouvo, biển số 60X2-2807, tạm giữ của bị cáo K, là tài sản của chị Bùi Thị B, em vợ của bị cáo K, cho K mượn để sử dụng và không sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã trả cho chị B là phù hợp.

[7] Về các nội dung khác có liên quan đến vụ án:

- Đối với Phạm Hoàng T đã bị khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” để điều tra, xử lý trong vụ án khác;

- Đối với đối tượng tên M (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có dấu hiệu đồng phạm trong vụ án, Cơ quan điều tra tiếp tục, xác minh, làm rõ và xử lý sau;

- Đối với hành vi của bị cáo K liên quan đến việc mua bán ma tuý cùng với T và đối tượng tên T1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch), do chưa đủ chứng cứ, tài liệu để kết luận. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, điều tra và xử lý sau. [8] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thời Nghi K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thời Nghi K 02 (Hai) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 17/11/2020.

3. Về xử lý vật chứng:

- Trả cho bị cáo K 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen (số Imei:354204109209973) do không liên quan đến việc phạm tội;

- Tịch thu sung công quỹ 01 (Một) điện thoại di động Redmi 7 (số Imei:

863863040656479), có gắn sim số thuê bao 0968737277, là tài sản của bị cáo K đã sử dụng để thực hiện tội phạm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 347/2021/HSST ngày 23/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:347/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về