TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 343/2021/DS-PT NGÀY 06/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 22/2019/TLPT-DS ngày 07 tháng 01 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay sản” Do Bản án dân sự sơ thẩm số 644/2018/DS-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1129/2021/DS-PT ngày 08/3/2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Đỗ Việt H, sinh năm 1960 Địa chỉ: đường M, phường N, quận X, Thành phố H.
Bị đơn:
1/ Công ty TNHH Thương mại Y Địa chỉ: đường N, phường L, quận X, Thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Đỗ Thị N, sinh năm 1959
2/ Bà Đỗ Thị N, sinh năm 1959
3/ Ông Lâm Thái T, sinh năm 1958
4/ Bà Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1980
Cùng thường trú: đường T, phường H, quận A, Thành phố H. Cùng địa chỉ: đường H, phường K, Quận X, Thành phố H.
Cùng địa chỉ liên hệ: đường N, phường Q, quận V, Thành phố H.
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Đỗ Việt H và các bị đơn bà Đỗ Thị N, ông Lâm Thái T, bà Nguyễn Thị Bích N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 17/01/2018, đơn khởi kiện bổ sung ngày 14/5/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Đỗ Việt H trình bày:
Do quen biết nên đã cho gia đình bà Đỗ Thị N vay các lần tiền cụ thể:
1. Ngày 30/7/2010 vay 2.250.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng.
2. Ngày 01/11/2010 vay 930.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 3. Ngày 08/10/2010 vay 1.000.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 4. Ngày 04/11/2010 vay 500.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 5. Ngày 10/8/2010 vay 2.350.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 6. Ngày 08/11/2010 vay 500.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 7. Ngày 13/12/2010 vay 1.000.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 8. Ngày 09/11/2010 vay 500.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 9. Ngày 20/08/2010 vay 2.200.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 10.Ngày 23/8/2010 vay 150.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 11.Ngày 20/10/2010 vay 300.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng 12.Ngày 25/11/2010 vay 300.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng. Tổng số nợ =11.980.000.000 đồng Tất cả đều tính lãi suất 1%/tháng, khi vay bà Đỗ Thị N có hứa dùng căn nhà đường T, phường H, quận A, Thành phố H; nhà đất tại đường Q, phường P, quận A, Thành phố Hồ Chi Minh; nhà đất đường M, phường N, quận A, Thành phố H để đảm bảo số nợ vay. Đến hết hạn vay vẫn hứa hẹn mỗi khi đề nghị trả nợ, bà Đỗ Thị N hứa bán được tài sản sẽ thanh toán tiền nợ cho ông, nhưng sau đó năm 2017 gia đình bà Đỗ Thị N đã bán hết các tài sản và thay đổi nơi ở không thanh toán nợ cho ông.
Ông Đỗ Việt H yêu cầu bà Đỗ Thị N thanh toán cho ông toàn bộ tiền vốn là 11.980.000.000 đồng.
Tiền lãi 9%/năm, tính từ năm 2011 đến ngày Tòa xử. Thời gian tính từ ngày 01/12/2010 đến ngày 26/11/2018, (7 năm 10 tháng) tiền lãi tính là 8.445.900.000 đồng.
2. Ngoài ra bà Đỗ Thị N và chồng tên Lâm Thái T có vay 500.000.000 đồng, cụ thể:
+ Ngày 16/5/2012 vay 200.000.000 đồng + Ngày 28/01/2013 vay 300.000.000 đồng Lãi suất 9%/năm, cũng giống như số tiền trên, vợ chồng bà Đỗ Thị N hứa khi bán tài sản sẽ thanh toán ông nhưng khi bán tài sản không trả nợ, nên ông yêu cầu bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T thanh toán cho ông 500.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 01/02/2013 đến 30/10/2018, lãi suất 9%/năm, (5 năm 8 tháng) tiền lãi là 255.000.000 đồng.
3. Bà Nguyễn Thị Bích N là con gái của bà Đỗ Thị N, ngày 07/6/2012 có vay của ông số tiền 170.000.000 đồng, đến nay chưa thanh toán. Cũng giống tình trạng của bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T, hai ông bà hứa bán tài sản sẽ thanh toán nợ nhưng khi bán không trả nợ, nên ông đề nghị thanh toán cho ông tiền vốn là tiền lãi từ ngày 07/6/2012 đến ngày 07/11/2018 (6 năm 5 tháng) là 98.175.000 đồng.
Bị đơn Công ty TNHH TM Y có ông Huỳnh Anh T đại diện theo ủy quyền trình bày:
Thừa nhận công ty TNHH TM Y do bà Đỗ Thị N làm đại diện theo pháp luật có vay của ông Đỗ Việt H tổng cộng 11.980.000.000 đồng đến nay chưa trả được tiền nợ vốn, lãi suất thỏa thuận 9%/năm. Và thời hạn 36 tháng. Đến hạn trả nợ do không có điều kiện trả nợ nên kéo dài đến nay. Bà Đỗ Thị N có thanh lý tài sản thế chấp tại ngân hàng nhưng vừa đủ trả nợ cho ngân hàng nên không có tiền trả nợ cho nguyên đơn. Bà Đỗ Thị N xin được trả số tiền nợ vốn, bằng cách mỗi tháng trả 10.000.000 đồng, lần lượt đến khi dứt nợ, hiện tại không có khả năng trả tiền lãi.
Bị đơn bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T có ông Huỳnh Anh T đại diện theo ủy quyền trình bày tại Tòa:
Thừa nhận có vay của ông Đỗ Việt H tổng số tiền là 500.000.000 đồng, cụ thể:
+ Ngày 16/5/2012 vay 200.000.000 đồng;
+ Ngày 28/01/2013 vay 300.000.000 đồng. Lãi suất 9%/năm. Do thanh lý tài sản để trả nợ cho Ngân hàng không đủ vì vậy không có tiền trả cho nguyên đơn, bà Đỗ Thị N ông Tác đề nghị cho trả dần tiền nợ vốn mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ, hiện tại không có khả năng trả tiền lãi.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Bích N có ông Huỳnh Anh T đại diện theo ủy quyền trình bày: Thừa nhận bà Nguyễn Thị Bích N là con gái của bà Đỗ Thị N, ngày 07/6/2012 có vay của ông Đỗ Việt H số tiền 170.000.000 đồng. Bà Ngọc xin trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ vốn, hiện tại không có khả năng trả tiền lãi.
Tại Bản án sơ thẩm số 644/2018/DS-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:
- Buộc Công ty TNHH TM Y có bà Đỗ Thị N đại diện theo pháp luật có trách nhiệm trả cho ông Đỗ Việt H số tiền nợ vốn là 11.980.000.000 đồng và tiền lãi là 8.445.900.000 đồng. Tổng cộng là 20.425.900.000 đồng (Hai mươi tỷ bốn trăm hai mươi lăm triệu chín trăm ngàn đồng) - Buộc bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T có trách nhiệm trả cho ông Đỗ Việt H số tiền nợ vốn là 500.000.000 đồng và 255.000.000 đồng tiền lãi. Tổng cộng là 755.000.000 đồng (bảy trăm năm mươi lăm triệu đồng).
- Buộc bà Nguyễn Thị Bích N có trách nhiệm trả cho ông Đỗ Việt H số tiền nợ vốn là 170.000.000 đồng, tiền lãi là 98.175.000 đồng. Tổng cộng là 268.175.000 đồng (hai trăm sáu mươi tám triệu một trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).
- Thi hành việc trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu của bên được thi hành, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành số tiền phải thi hành thì hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/12/2018 ông Đỗ Việt H có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Tại đơn kháng cáo, bản tự khai, biên bản làm việc, nguyên đơn ông Đỗ Việt H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với nội dung: Ông khẳng định ông cho bà Đỗ Thị N vay số tiền 11.980.000.000 đồng chứ không phải cho công ty TNHH Thương mại Y vay, người vay tiền và ký nhận trong các biên bản vay tiền là cá nhân bà Đỗ Thị N. Ông vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án: Buộc bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T có trách nhiệm trả cho ông số tiền nợ gốc 11.980.000.000 đồng và nợ gốc 500.000.000 đồng, tổng cộng là 12.480.000.000 đồng; Buộc bà Nguyễn Thị Bích N trả cho ông số tiền nợ gốc 170.000.000 đồng; Ông xin rút lại yêu cầu về phần lãi suất của các số tiền nợ gốc nêu trên.
Bà Đỗ Thị N, bà Nguyễn Thị Bích N, ông Lâm Thái T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Lý do kháng cáo: Bản án sơ thẩm tuyên gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của các đương sự, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm đối với phần lãi suất của các hợp đồng vay.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Đỗ Việt H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các bị đơn Công ty TNHH Thương mại Y, bà Đỗ Thị N, ông Lâm Thái T, bà Nguyễn Thị Bích N vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến hết quá trình xét xử phúc thẩm. Các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Về nội dung kháng cáo:
Xét thấy các Hợp đồng vay tiền đều là bản viết tay giữa cá nhân ông Đỗ Việt H và bà Đỗ Thị N ký giao nhận tiền, người vay tiền được ghi là bà Đỗ Thị N, người ký nhận tiền cũng là cá nhân bà Đỗ Thị N, không có tên công ty và con dấu của công ty TNHH Thương mại Y. Hơn nữa, công ty Y không có văn bản xác nhận nợ, không có bản kê phiếu thu nộp tiền của ông Đỗ Việt H. Do đó, có cơ sở xác định người vay tiền là cá nhân bà Đỗ Thị N, không phải công ty Y.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm:
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của các bị đơn bà Đỗ Thị N, ông Tác, bà Ngọc.
- Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Hải về yêu cầu sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm buộc bà Đỗ Thị N chịu trách nhiệm cá nhân về khỏan nợ gốc 11.980.000.000 đồng, ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc không tính lãi suất đối với số tiền nợ gốc của các bị đơn.
- Các đuơng sự chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Ông Huỳnh Anh T là người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn Công ty TNHH TM Y, bà Đỗ Thị N, ông Lâm Thái T, bà Nguyễn Thị Bích N có Đơn xin hủy ủy quyền và từ chối tham gia tố tụng ngày 15/6/2020. Tòa án đã nhiều lần triệu tập Công ty TNHH TM Y, bà Đỗ Thị N, ông Lâm Thái T, bà Nguyễn Thị Bích N đến tòa để tham gia phiên tòa và hỏi ý kiến nhưng các bị đơn đều vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử xét việc đơn phương hủy ủy quyền của ông Huỳnh Anh T theo giấy uỷ quyền ngày 10/5/2018, các hợp đồng ủy quyền số 18249 ngày 09/11/2018, số 18456 ngày 13/11/2018 là hợp lệ.
Tại phiên tòa, người kháng cáo – nguyên đơn ông Đỗ Việt H vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người kháng cáo – bị đơn bà Đỗ Thị N, ông Lâm Thái T, bà Nguyễn Thị Bích N vắng mặt mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 228, điểm b Khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.
[2] Về yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn:
Tại Tòa án cấp sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn đã thống nhất số tiền nợ vốn, thời gian vay cũng như tiền lãi còn thiếu. Tại biên bản hòa giải và biên bản kiểm tra chứng cứ cùng ngày 13/11/2018, nguyên đơn ông Đỗ Việt H xác định “ông Đỗ Việt H xác nhận ông cho cá nhân bà Đỗ Thị N vay tiền (bà Đỗ Thị N lúc bấy giờ là chủ và là giám đốc công ty TNHH TM Y). Bà Đỗ Thị N xác nhận cá nhân bà Đỗ Thị N không vay tiền mà là Công ty TNHH TM Y vay tiền của tôi thì đề nghị Tòa xác minh cơ quan thuế để làm rõ số tiền mà bà Đỗ Thị N vay có hoạch toán vào công ty TNHH TM Y hay không”.
Tại đơn kháng cáo và các văn bản nộp cho Tòa án, ông Đỗ Việt H khẳng định ông cho bà Đỗ Thị N vay số tiền 11.980.000.000 đồng chứ không phải cho công ty TNHH Thương mại Y vay, người vay tiền và ký nhận trong các biên bản vay tiền là cá nhân bà Đỗ Thị N.
Xét thấy các Hợp đồng vay tiền đều là bản viết tay giữa cá nhân ông Đỗ Việt H và bà Đỗ Thị N ký giao nhận tiền, người vay tiền được ghi là bà Đỗ Thị N, người ký nhận tiền cũng là cá nhân bà Đỗ Thị N, không có tên công ty và con dấu của công ty TNHH Thương mại Y. Hơn nữa, công ty Y không có văn bản xác nhận nợ, không có bản kê phiếu thu nộp tiền của ông Đỗ Việt H. Do đó, có cơ sở xác định người vay tiền là cá nhân bà Đỗ Thị N, không phải công ty Y.
Do đó, ông Đỗ Việt H đề nghị sửa bản án sơ thẩm, buộc vợ chồng bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T có trách nhiệm trả cho ông số tiền nợ gốc 11.980.000.000 đồng là có cơ sở.
* Đối với yêu cầu đòi số nợ gốc 500.000.000 đồng của ông Đỗ Việt H đối với bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T vào ngày 16/5/2012 và ngày 28/01/2013. Bị đơn bà Đỗ Thị N và ông Tác thừa nhận các khoản nợ vay này và lãi suất thỏa thuận.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc vợ chồng bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T có trách nhiệm trả cho ông số tiền nợ gốc 11.980.000.000 và nợ gốc 500.000.000 đồng, tổng cộng là 12.480.000.000 đồng;
* Đối với yêu cầu đòi nợ bà Nguyễn Thị Bích N, hai bên thống nhất số tiền vay ngày 07/6/2012. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Nguyễn Thị Bích N trả cho ông số tiền nợ gốc 170.000.000 đồng.
[3] Về yêu cầu kháng cáo của các bị đơn:
Xét thấy bị đơn bà Đỗ Thị N, ông Lâm Thái T, bà Nguyễn Thị Bích N cùng có yêu cầu kháng cáo về phần lãi suất của các khoản nợ vay. Tuy nhiên các bị đơn đều vắng mặt tại các phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của các bị đơn.
Tại Tòa án cấp phúc thẩm, nguyên đơn ông Đỗ Việt H có yêu cầu xin rút lại yêu cầu khởi kiện về phần tính lãi suất. Các bị đơn vắng mặt nên không có ý kiến về việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về lãi suất của các khỏan vay.
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về phần tính lãi suất là tự nguyện, hợp lệ và phù hợp với yêu cầu kháng cáo của các bị đơn, có lợi cho các nguyên đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được Toà án chấp nhận theo quy định tại Điều 2, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nhưng do ông Tác, bà Đỗ Thị N thuộc trường hợp miễn nộp án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết nêu trên và có đơn xin miễn nộp án phí nên Hội đồng xét xử miễn nộp tiền án phí cho ông Tác, bà Đỗ Thị N.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 26; 91; 147; 227, 273, Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố Tụng Dân Sự;
- Căn cứ khoản 5 điều 466, khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân Sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 2, Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu kháng cáo của các bị đơn; Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 644/2018/DS-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H:
1. Buộc bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T có trách nhiệm trả cho ông Đỗ Việt H số tiền nợ gốc là 11.980.000.000 đồng và 500.000.000 đồng. Tổng cộng là 12.480.000.000 đồng (Mười hai tỷ bốn trăm tám mươi triệu đồng).
2. Buộc bà Nguyễn Thị Bích N có trách nhiệm trả cho ông Đỗ Việt H số tiền nợ gốc là 170.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu đồng).
3. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần lãi suất của các khoản tiền sợ gốc 11.980.000.000 đồng và 500.000.000 đồng của bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T.
Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần lãi suất của khoản tiền nợ gốc là 170.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị Bích N.
Thi hành việc trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu của bên được thi hành, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành số tiền phải thi hành thì hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Đỗ Việt H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho ông Đỗ Việt H các khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp là 63.224.500 đồng (Sáu mươi ba triệu hai trăm hai mươi bốn ngàn năm trăm đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2017/0040316 ngày 24/01/2018; và 22.140.000 đồng (hai mươi hai triệu một trăm bốn mươi ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2017/0040812 ngày 21/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố H.
Bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị Bích N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm nghìn đồng).
3/ Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Đỗ Việt H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn lại cho ông Đỗ Việt H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0016817 ngày 26/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố H.
Bà Đỗ Thị N và ông Lâm Thái T được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho bà Đỗ Thị N số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0016813 ngày 26/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố H.
Bà Nguyễn Thị Bích N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0016814 ngày 26/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố H. Bà Ngọc đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
4/ Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 343/2021/DS-PT ngày 06/04/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 343/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về