Bản án 343/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 343/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 398/2019/HSST ngày 22 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3921/2019/QĐXXST-HS, ngày 28 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đoàn Ngọc Trung H; sinh ngày: 02/11/1991, tại Thành phố Đà Nẵng; Thường trú: Tổ 39, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: Căn hộ số 13B01, chung cư T, số 125, đường Đ, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ quán Karaoke; Trình độ học vấn: 10/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Đoàn Ngọc S (chết) và bà Võ Thị M; Có vợ: Nguyễn Trần Thanh V, sinh năm: 1995 (Đã ly hôn) và 01 con, sinh năm: 2011; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/02/2019 – Có mặt.

2. Nguyễn N; sinh ngày: 28/02/1998, tại Quảng Ngãi; Thường trú: Thôn A, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; Chỗ ở: Căn hộ số 13B01, chung cư T, số 125, đường Đ, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: chạy xe mô tô Grab; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn T và bà Trần Thị Mỹ D; Vợ, con: Chưa có; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2019 – Có mặt.

- Người bào chữa:

1/ Ông Đỗ Ngọc O là Luật sư Văn phòng luật sư Đỗ Ngọc O thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo – Có mặt.

2/ Ông Trần Ngọc H là Luật sư Công ty Luật TNHH Đ thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo – Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn L; Sinh năm: 1983; Thường trú: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi – Vắng mặt (Có đơn xin vằng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 26/02/2019, tại trước nhà số 905 đường T, Phường 1, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh, bắt qủa tang Nguyễn N đang cất giấu 01 gói giấy, bên trong có 01 gói nylon chứa 50 viên nén hình chữ nhật màu xanh và 01 gói nylon chứa 50 viên nén hình chữ nhật màu vàng, để trong túi da màu nâu Nhật đang đeo trên người.

Tại bản Kết luận giám định số 638/KLGĐ-H ngày 04/3/2019 của Phòng Kỹ thuật Công an Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 49,1442 gam loại MDMA.

Nguyễn N khai số ma túy trên là của Đoàn Ngọc Trung H đưa cho Nguyễn N để Nguyễn N đem đi giao cho một người tên V (không rõ lai lịch) và lấy 15.000.000 đồng về cho Hiếu.

Mở rộng điều tra vụ án, đến 23 giờ 45 phút cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đoàn Ngọc Trung H và Nguyễn N tại căn hộ số 13B01, chung cư T, số 125, đường Đ, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, đã phát hiện và thu giữ 01 gói nylon chứa 56 viên nén màu xanh và 01 gói nylon chứa 43 viên nén màu vàng, để trong túi xách treo trên tường trong phòng ngủ của Hiếu.

Tại bản Kết luận giám định số 642/KLGĐ-H ngày 07/3/2019 của Phòng Kỹ thuật Công an Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 48,7284 gam loại MDMA.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận như sau:

Đoàn Ngọc Trung H khai: Đoàn Ngọc Trung H là nhân viên phục vụ tại quán Karaoke M số 357 đường P, phường P, Quận 1. Trước ngày bị bắt khoảng 01 tháng Đoàn Ngọc Trung H nhặt được 01 túi xách của khách bỏ quên tại quán, bên trong túi có 04 bịch nylon chứa 200 viên thuốc lắc nên Đoàn Ngọc Trung H mang về nơi ở cất giấu, trong số 200 viên thuốc lắc có 01 viên bị vỡ nên Đoàn Ngọc Trung H cho Nguyễn N sử dụng. Do trước đây khi làm việc ở quán Karaoke, Đoàn Ngọc Trung H có quen biết người tên V (không rõ lai lịch) và thấy V bán ma túy cho khách, nên Đoàn Ngọc Trung H liên lạc với V hỏi bán số thuốc lắc nêu trên thì V đồng ý mua. Đến tối ngày 25/02/2019 trong khi đang cùng Nguyễn N sử dụng cần sa tại phòng của Đoàn Ngọc Trung H thì V gọi điện thoại cho Đoàn Ngọc Trung H hỏi mua 200 viên thuốc lắc với giá 150.000 đồng/viên và hẹn địa điểm giao nhận ma túy vào ngày 26/02/2019. Sáng ngày 26/02/2019 Đoàn Ngọc Trung H đưa cho Nguyễn N 01 gói giấy chứa 100 viên thuốc lắc để đi giao cho V tại khu vực quán cà phê Nh, gần giao lộ Lê Hồng Phong-Trần Hưng Đạo, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh và lấy 15.000.000 đồng mang về cho Đoàn Ngọc Trung H. Sau đó Đoàn Ngọc Trung H đi làm thì đến tối cùng ngày bị Công an khám xét nơi ở thu giữ số ma túy còn lại là 99 viên nén chưa bán hết. Ngoài ra Đoàn Ngọc Trung H còn khai có đến khu vực đường Bùi Viện, Quận 1 mua cần sa của một người không quen biết về sử dụng cùng với Nhật.

Nguyễn N khai nhận phù hợp với lời khai của Đoàn Ngọc Trung H về việc phụ giúp Đoàn Ngọc Trung H đem ma túy đi giao cho V như nêu trên. Hiếu không hứa hẹn trả tiền công cho Nguyễn N nhưng do Nguyễn N được Đoàn Ngọc Trung H cho sử dụng ma túy và do tình cảm bạn bè thân thiết nên Nguyễn N đi giao ma túy giúp Đoàn Ngọc Trung H.

Đi với các đối tượng tên V là người hỏi mua ma túy của Đoàn Ngọc Trung H, Nguyễn N và đối tượng bán cần sa cho Đoàn Ngọc Trung H, do Đoàn Ngọc Trung H khai không rõ nhân thân lai lịch, nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- Thu giữ của Nguyễn N:

+ 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 638 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh T và cán bộ điều tra Nguyễn Phi K, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone, Nguyễn N sử dụng liên lạc để bán ma túy với V.

+ 01 túi xách màu nâu Nguyễn N sử dụng để cất ma túy.

+ 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 76K3-5733, số khung: RLCS5C640-9Y189196; số máy: 5C64-189197. Qua điều tra xác minh thể hiện xe do ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1983, trú tại thôn T, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi đứng tên sở hữu. Ông Nguyễn Văn L là anh rể của Nguyễn N, năm 2018 ông Nguyễn Văn L cho Nguyễn N mượn xe sử dụng, việc Nguyễn N dùng xe làm phương tiện đi giao ma túy ông Nguyễn Văn L không biết.

- Thu giữ của Đoàn Ngọc Trung H:

+ 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 642 có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T và cán bộ điều tra Nguyễn Phi K, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone, Đoàn Ngọc Trung H sử dụng liên lạc với V để bán ma túy.

+ 01 hộp nhựa màu đen, 01 túi xách Đoàn Ngọc Trung H sử dụng để cất giấu ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 278/CT-VKS-V2 ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã truy tố các bị cáo Đoàn Ngọc Trung H, Nguyễn N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu lời luận tội, giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 3; khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc Trung H từ 17 đến 18 năm tù và phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng; Căn cứ điểm b khoản 3; khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn N từ 15 đến 16 năm tù và phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất các biện pháp xử lý vật chứng.

- Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Ngọc Trung H là Luật sư Đỗ Ngọc O trình bày quan điểm bào chữa như sau:

Thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”, và khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo Hiếu. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết: Bị cáo có nhân thân tốt, thái độ khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, có hoàn cảnh khó khăn đã ly hôn vợ, bị cáo phải nuôi con nhỏ. Nguồn gốc số ma túy không phải do bị cáo mua để bán lại nhằm thu lợi mà do nhặt được và hậu quả của tội phạm chưa xảy ra do được ngăn chặn kịp thời, bị cáo cũng chưa có thu lợi bất chính. Mức hình phạt mà đ ạ i d i ệ n Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt ở đầu khung hình phạt là phù hợp. Về số tiền phạt bổ sung, đề nghị miễn áp dụng do gia đình bị cáo rất khó khăn.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn N là Luật sư Trần Ngọc Hòa trình bày quan điểm bào chữa:

Thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo Nhật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm về động cơ mục đích phạm tội của bị cáo. Xuất phát từ sự nể nang tình cảm anh em bạn bè và được bị cáo Hiếu cho sử dụng cần sa không phải trả tiền mà bị cáo chấp nhận đi giao ma túy cho bị cáo Đoàn Ngọc Trung H, Đoàn Ngọc Trung H cũng không có hứa hẹn trả công cho bị cáo, nên hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn N không vì mục đích vụ lợi. Bị cáo tham gia với vai trò hết sức hạn chế, chỉ làm theo sự chỉ đạo của bị cáo Hiếu và hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện chưa xảy ra, chưa gây ra tác hại cho xã hội vì được ngăn chặn kịp thời, nhưng mức hình phạt mà đ ạ i d i ệ n Viện kiểm sát đề xuất áp dụng đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo Nguyễn N được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà Viện kiểm sát truy tố và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nhật.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tranh luận đối đáp với các Luật sư: Không đồng ý với ý kiến của các Luật sư cho rằng hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện chưa xảy ra, chưa gây ra tác hại cho xã hội vì được ngăn chặn kịp thời. Bởi vì ma túy là một loại chất gây nghiện đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, hành vi mua bán chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã góp phần làm cho loại tệ nạn này ngày càng phát triển rộng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của xã hội. Mặt khác cũng không đồng ý với đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn N về việc áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo Nhật được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, vì không có căn cứ.

Về tội danh, khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ khác mà các Luật sư nêu ra là thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, nên vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề nghị.

Sau khi tranh luận đối đáp các bên vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

- Các bị cáo Đoàn Ngọc Trung H và Nguyễn N đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như nêu trên, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định:

Đoàn Ngọc Trung H là nhân viên phục vụ quán Karaoke, khoảng tháng 01 năm 2019, Hi Đoàn Ngọc Trung H nhặt được 01 túi xách của khách bỏ quên tại quán, bên trong túi có 04 bịch nylon chứa 200 viên thuốc lắc nên Đoàn Ngọc Trung H mang về nơi ở tại căn hộ số 13B01, chung cư T, số 125, đường Đ, phường T, Quận 2 cất giấu, và lấy ra 01 viên bị vỡ đưa cho Nguyễn N sử dụng.

Do trước đây Đoàn Ngọc Trung H quen biết một người tên V có mua bán ma túy, nên Đoàn Ngọc Trung H liên lạc hỏi bán số thuốc lắc nêu trên thì V đồng ý mua. Tối ngày 25/02/2019 trong khi đang cùng Nguyễn N sử dụng cần sa tại phòng của Đoàn Ngọc Trung H thì V gọi điện thoại Đoàn Ngọc Trung H cho hỏi mua 200 viên thuốc lắc với giá 150.000 đồng/viên. Sáng ngày 26/02/2019 Hiếu đưa cho Nguyễn N 01 gói giấy chứa 100 viên thuốc lắc và số điện thoại của đối tượng tên V, kêu đem giao cho V tại khu vực quán cà phê Nt, Quận 5 và lấy 15.000.000 đồng mang về cho Đoàn Ngọc Trung H. Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 26/02/2019, khi Nguyễn N đang mang số ma túy trên đi giao cho V thì bị Công an Quận 5 bắt quả tang, thu giữ 01 gói giấy, bên trong có 02 gói nylon chứa 100 viên nén hình chữ nhật để trong túi da màu nâu Nguyễn N đang đeo trên người.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đoàn Ngọc Trung H và Nguyễn N tại căn hộ số 13B01, chung cư T, Quận 2, Công an thu giữ 02 gói nylon chứa 99 viên nén để trong túi xách treo trên tường trong phòng ngủ của Đoàn Ngọc Trung H.

Tại các bản Kết luận giám định số 638/KLGĐ-H ngày 04/3/2019 và số 642/KLGĐ-H ngày 07/3/2019 của Phòng Kỹ thuật Công an Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện số ma túy thu giữ của Nguyễn N là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 49,1442 gam loại MDMA; Số ma túy thu giữ của Hiếu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 48,7284 gam loại MDMA.

Xét thấy các bị cáo Đoàn Ngọc Trung H và Nguyễn N đã có hành vi bán 49,1442 gam MDMA cho đối tượng tên Vũ, ngoài ra bị cáo Đoàn Ngọc Trung H còn có hành vi cất giữ 48,7284 gam MDMA nhằm mục đích bán lại, nên đã có cơ sở để kết luận các bị cáo Đoàn Ngọc Trung H, Nguyễn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng đã truy tố.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, mặt khác nó còn là nguyên nhân làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng, là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo biết rõ ma túy là một loại tệ nạn xã hội, hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi các bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Do vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thì thấy rằng bị cáo Hiếu là người có ma túy, chủ động trong việc cất giữ cũng như tìm cách để bán ma túy, sau đó rủ rê lôi kéo bị cáo Nhật cùng thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài số ma túy bị cáo phải chịu trách nhiệm cùng với bị cáo Nguyễn N là 49,1442 gam MDMA, bị cáo Hiếu còn phải chịu trách nhiệm đối với số ma túy còn lại chưa kịp bán là 48,7284 gam MDMA mà bị cáo đang cất giữ. Bị cáo Nguyễn N mặc dù biết bị cáo Hiếu thỏa thuận bán ma túy cho đối tượng tên V, nhưng do được Đoàn Ngọc Trung H cho sử dụng cần sa mà không phải trả tiền, cũng như xuất phát từ sự nể nang tình cảm anh em bạn bè, nên vẫn chấp nhận mang ma túy đi bán theo sự chỉ đạo của Đoàn Ngọc Trung H, bị cáo không biết nguồn gốc cũng như số lượng ma túy mà Hiếu có. Bị cáo Đoàn Ngọc Trung H là người giữ vai trò chính trong vụ án, nên phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn bị cáo Nhật.

Đi với quan điểm của các Luật sư bào chữa cho các bị cáo và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về tội danh, khung hình phạt cũng như các tình tiết giảm nhẹ mà các Luật sư và đại diện Viện kiểm sát đã nêu, cơ bản là thống nhất với nhau và có cơ sở, nên chấp nhận. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo Hiếu, Nhật theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đi với đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Nhật về việc áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, cho bị cáo Nhật được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận đề nghị của Luật sư vì không có cơ sở.

Đối với các đối tượng tên V là người hỏi mua ma túy của Đoàn Ngọc Trung H, Nguyễn N và đối tượng bán cần sa cho Đoàn Ngọc Trung H, do Đoàn Ngọc Trung H khai không rõ nhân thân lai lịch, nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

[2] Về hình phạt bổ sung:

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Đoàn Ngọc Trung H, Nguyễn N, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với cả hai bị cáo. Phạt bị cáo Đoàn Ngọc Trung H số tiền 10.000.000 đồng; Phạt bị cáo Nguyễn N số tiền 5.000.000 đồng, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

 [3] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng của vụ án gồm có:

- Số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone thu giữ của bị cáo Đoàn Ngọc Trung H; 01 01 điện thoại di động hiệu Iphone thu giữ của bị cáo Nguyễn N, là công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, loại xe: 02 bánh; biển số 76K3-5733, số khung: RLCS5C640-9Y189196; số máy: 5C64-189197. Qua điều tra xác minh thể hiện xe do ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1983, trú tại thôn T, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi đứng tên sở hữu. Ông Nguyễn Văn L là anh rể của Nguyễn N. Ông Nguyễn L khai do Nguyễn N không có xe nên cho Nguyễn N mượn xe sử dụng làm phương tiện đi lại, việc Nguyễn N dùng xe làm phương tiện đi bán ma túy ông Nguyễn Văn L không biết. Xét thấy chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn L không có lỗi trong việc Nguyễn N dùng xe làm phương tiện đi bán ma túy, nên trả lại xe trên cho ông Nguyễn Văn L.

- Đối với 01 túi xách màu nâu Nguyễn N sử dụng để cất ma túy; 01 hộp nhựa màu đen, 01 túi xách Đoàn Ngọc Trung H sử dụng để cất giấu ma túy, là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về hình phạt:

- Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc Trung H 18 (mười tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 02 năm 2019;

- Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn N 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 02 năm 2019.

[2] Về hình phạt bổ sung:

- Căn cứ vào khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Phạt bị cáo Đoàn Ngọc Trung H số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng; phạt bị cáo Nguyễn N số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

 Tịch thu, tiêu hủy.

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 638 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh T và cán bộ điều tra Nguyễn Phi K, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 642 có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T và cán bộ điều tra Nguyễn Phi K, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 02 túi xách, 01 hộp nhựa mùa đen.

 Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone bạc, Imei....6517072; 01 Iphone màu đen model A1784(không kiểm tra được imei do không có nguồn điện).

- Trả cho ông Nguyễn Văn L 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, loại xe: 02 bánh; biển số 76K3-5733, số khung: RLCS5C640-9Y189196; số máy:

5C64-189197.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 387/19 ngày 24/07/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh). [4] Án phí hình sự sơ thẩm:

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án; Buộc các bị cáo Đoàn Ngọc Trung H, Nguyễn N, mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

[5] Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; c bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 343/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:343/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về