Bản án 342/2019/HS-ST ngày 16/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 342/2019/HS-ST NGÀY 16/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 427/2019/HSST ngày 07/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3956/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn T, tên gọi khác: không, sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: E14/16A Ấp 5, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số 67/43/60 Nguyễn Thị Tú, Khu phố 3, phường B, quận B1 và nhà không số, Tổ 69, Khu phố 4, phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T (đã chết) và bà Trần Thị B; tại phiên tòa bị cáo khai có vợ (không đăng ký kết hôn) và 01 con sinh tháng 7/2019; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại Bản án số 250/2014/HSST ngày 31/7/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong hình phạt ngày 01/12/2015. Bị bắt, tạm giam từ ngày 14/3/2019. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Hồng Lạc thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Trần Văn T. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 14/3/2019, tại trước nhà không số kế nhà sô A7/38 Ấp 1, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Trần Văn T đang điều khiển xe gắn máy biển số 59V2 – 895.66 có hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý nhằm mục đích để bán thì bị phát hiện bắt quả tang. Quá trình kiểm tra, T tự nguyện giao nộp từ trong túi phía trước bên trái đang mặc ra 01 gói nylon có ghi chữ Coffee bên trong có chứa 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 30,8288g, loại Methamphetamine (Kết luận giám định số 736/KLGĐ-H ngày 22/03/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn T khai nhận: khoảng tháng 01/2019 thông qua bạn bè xã hội T có quen biết một người tên Thiện (không rõ lai lịch) và được Thiện giới thiệu là có mua bán ma túy. Sau đó, một người tên Bu (không rõ lai lịch) cũng là bạn bè ngoài xã hội hỏi T có ma tuý thì bán lại cho Bu nên T đã liên lạc với Thiện để mua ma tuý và đem bán lại cho Bu 02 lần, cụ thể:

- Lần 01: Cách ngày bị bắt khoảng 02 tuần, Bu điện thoại cho T đặt mua một góc tám ma tuý đá (khoảng 01g), T mua ma túy của Thiện với giá 400.000 đồng trên đường Phan Huy Ích, quận Gò Vấp và bán lại cho Bu với giá 500.000 đồng, giao dịch tại khu vực Ấp 1, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh.

- Lần 02: vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/3/2019, Bu điện thoại cho T hỏi mua một góc tư ma tuý đá (khoảng 30g). T liên hệ và được Thiện báo giá 8.500.000 đồng, T báo giá cho Bu là 9.000.000 đồng, Bu đồng ý mua và hẹn giao dịch ma tuý tại khu vực Ấp 1, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh. Sau đó, T đến gặp Thiện tại khu vực đường Phan Huy Ích nhận 02 gói ma túy đá đựng trong gói nylon có ghi chữ Coffee cất trong túi quần đang mặc rồi điều khiển xe gắn máy đến điểm hẹn để bán ma tuý đá cho Bu thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 298/CT-VKS-P1 ngày 26/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Văn T từ 15 đến 16 năm tù; buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Hồng Lạc trình bày bào chữa cho bị cáo Trần Văn T thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần phạm tội trước đây của bị cáo đã được xóa án tích nên lần này được xem là chưa có tiền án, tiền sự; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha mất sớm, mẹ đã lớn tuổi, con còn nhỏ; số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra cộng đồng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

Bị cáo Trần Văn T thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

Đối đáp lại quan điểm của luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng luật sư thống nhất về tội danh và điều luật truy tố, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Văn T không có ý kiến về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Văn T đã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trên.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can, vật chứng thu giữ, kết luận giám định… nên đã có đủ cơ sở xác định: từ tháng 01/2019, bị cáo Trần Văn T đã mua ma túy của một người đàn ông tên Thiện (không rõ lai lịch) để bán cho Bu (không rõ lai lịch) nhằm kiếm lời. Bị cáo đã bán trót lọt cho Bu được 01 lần với khối lượng khoảng 01gam ma túy đá, thu lợi 100.000 đồng nhưng do không bắt được Bu, ngoài lời khai của bị cáo không có chứng cứ nào khác để chứng minh nên chưa có cơ sở để buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với lần mua bán này. Lần thứ 2 vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/3/2019, sau khi mua ma túy của Thiện (không rõ lai lịch) với giá 8.500.000 đồng, bị cáo cất ma túy vào túi quần đang mặc rồi đem đến khu vực ấp 1, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh để bán cho Bu với giá 9.000.000 đồng, nhưng chưa kịp bán thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái bị cáo đang mặc 01 gói nylon có ghi chữ Coffee bên trong có chứa 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 30,8288g, loại Methamphetamine (Kết luận giám định số 736/KLGĐ-H ngày 22/03/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Do đó, Trần Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự với số ma túy bị bắt quả tang là 30,8288g, loại Methamphetamine.

Với các hành vi như trên, xét đã có cơ sở để tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt 02 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, mặc dù đã được xóa án tích, nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, cho thấy bị cáo là người bất chấp và coi thường pháp luật, khó giáo dục cải tạo. Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt của điều luật truy tố quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như vị đại diện Viện kiểm sát và vị luật sư bào chữa đã đề cập như: bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha mất sớm, mẹ đã lớn tuổi; số ma túy bị cáo chuẩn bị đem bán cho Bu đã bị thu giữ, chưa phát tán ra ngoài cộng đồng để áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với khoản tiền thu lợi bất chính, do xác định bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong lần phạm tội và bị bắt quả tang ngày 14/3/2019, ngoài lời khai của bị cáo thì chưa có căn cứ nào khác để xác định bị cáo có thu lợi bất chính nên không buộc bị cáo phải nộp lại.

Đối với đối tượng tên Thiện là người bán ma túy cho bị cáo T và Bu là người mua ma túy của bị cáo, do bị cáo khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và gói nylon ghi chữ Coffee bên trong không chứa gì không còn giá trị sử dụng nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại di động hiệu Iphone, bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2015 tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với xe hai bánh gắn máy hiệu biển số 59V2 – 895.66, hiệu Sonic, số khung MH1KB1116JK149979, số máy: KB11E1148852 do ông Trịnh Trung T, sinh năm 1984; trú tại: Số 6/3 Phan Thúc Duyện, Phường 4, quận Tân Bình đứng tên đăng ký sở hữu. Ông Trịnh Trung T khai: vào khoảng 04/2018, ông mua chiếc xe này, đến tháng 12/2018 thì bán lại cho Nguyễn Khánh Duy, sinh năm 1999, trú tại: 133/34 Quang Trung, Phường 10, quận Gò Vấp. Tiến hành xác minh được biết Trần Khanh Duy không còn sinh sống tại địa phương nên không lấy được lời khai. Bị cáo Trần Văn T khai: khoảng tháng 02/2019, bị cáo mua chiếc xe này từ Nguyễn Khánh Duy, có làm thủ tục công chứng việc mua bán xe nhưng chưa làm thủ tục sang tên, bị cáo dùng xe để làm phương tiện đi lại đến ngày 14/3/2019 thì bị bắt và tạm giữ. Mặc dù, bị cáo T khai khi mua xe có thông qua thủ tục công chứng nhưng lại không cung cấp được giấy tờ bản chính thể hiện việc này, vì vậy xe vẫn được xác định chủ sở hữu là Nguyễn Khánh Duy, nhưng hiện Duy đã bỏ đi đâu không rõ nên chưa xác định được nguồn gốc chiếc xe trên. Do đó, cần áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự yêu cầu cơ quan thi hành án đăng báo tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp sau 12 tháng nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì trả lại cho người đó, nếu không xác định được thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Văn T 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 14/3/2019.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong 736/19 bên ngoài có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường bên trong là mẫu còn lại sau giám định và 01 gói nylon ghi chữ Coffee bên trong không chứa gì.

- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, Model A1785 (đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong máy).

- Thông tin tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp trên báo chí, sau 12 tháng kể từ ngày đăng báo nếu chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp không đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với: 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu Honda, số loại: Sonic, biển số 59V2 - 895.66, số khung: MH1KB1116JK149979, số máy: KB11E1148852 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 386/19 ngày 23/7/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 342/2019/HS-ST ngày 16/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:342/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về