Bản án 34/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đào Minh T, tên gọi khác: không có; sinh ngày: 07/8/1995 tại U Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 3, khu T, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Phi K, sinh năm 1968 và bà Lê Thị Bích H, sinh năm 1972; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đầu thú ngày 04/01/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại: Chị Vũ Thị T, sinh năm: 1998; Địa chỉ: Tổ 3, khu 8, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Thế A, sinh năm: 1984 Địa chỉ: Tổ 24A, khu 7, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn xin xử án vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đào Minh T và chị Vũ Thị T có mối quan hệ quen biết, nên sáng ngày 03/01/2021 T nảy sinh ý định mượn xe mô tô của chị T để cầm cố lấy tiền ăn tiêu.

Khong 13 giờ 30 phút cùng ngày T đến cửa hàng “Phụ kiện đẹp” tại số 559, đường Q, thuộc phường Q, thành phố U (nơi chị T làm việc) gặp chị T mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển kiểm soát (BKS) 14Y1-248.77 nói là đi có việc. Chị T tin nên đã giao xe cho T. Sau khi mượn được xe T điều khiển xe đến tiệm cầm đồ Thế Vượng tại tổ 24A, khu 7, phường Q gặp anh Bùi Thế A để đặt vấn đề cầm cố xe, nhưng do không có giấy đăng ký xe, nên anh Thế A không nhận cầm cố. T nghĩ chị T để giấy đăng ký xe mô tô trong ví, nên T quay lại cửa hàng gặp chị T nói “đưa túi đây, anh cho 200.000 đồng này” mục đích để lấy giấy đăng ký xe. Chị T đưa ví cho T, lợi dụng lúc chị T không chú ý T lấy giấy đăng ký xe giấu vào trong người và để tờ 200.000 đồng vào ví rồi điều khiển xe mô tô quay lại cửa hàng cầm đồ Thế Vượng cầm cố chiếc xe được 17.000.000 đồng, số tiền này T đã ăn tiêu hết. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, chị T gọi điện thoại yêu cầu T trả xe, T thừa nhận đã cầm cố xe mô tô để lấy tiền và hẹn 08 giờ ngày hôm sau sẽ trả lại xe cho chị T. Đến tối ngày 04/01/2021 không thấy T trả lại xe chị T đã đến cơ quan Công an trình báo. Cùng ngày T đến Công an đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐGTS ngày 22/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Uông Bí, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision BKS 14Y1-248.77, xe cũ đã qua sử dụng trị giá 20.000.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 37/CT-VKSUB ngày 31/3/2021, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Đào Minh T về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố.

- Bị hại chị Vũ Thị T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Bùi Thế A vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có lời khai trong hồ sơ phù hợp với lời khai của bị cáo.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đào Minh T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và khoản 5 Điều 65 BLHS, xử phạt Đào Minh T từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng. Giao bị cáo cho UBND phường N, thành phố U giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng, nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên không xem xét, đề cập.

- Về xử lý vật chứng và các tài sản bị tạm giữ: Chiếc xe mô tô Honda Vision BKS 14Y1-248.77, cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại chị Vũ Thị T, chị T không có yêu cầu gì khác, nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với lời khai bị hại chị Vũ Thị T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Bùi Thế A, phù hợp với kết luận định giá tài sản, với vật chứng vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 03/01/2021 tại cửa hàng “Phụ kiện đẹp” ở số nhà 559, đường Q, thuộc phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Đào Minh T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản là chiếc xe mô tô Honda Vision BKS 14Y1-248.77 trị giá 20.000.000 đồng của chị Vũ Thị T, sau đó mang đi cầm cố cho anh Bùi Thế A được 17.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về Hình phạt:

[3.1] Về hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất an ninh, trật tự, làm ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức đầy đủ về hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì coi thường pháp luật, bị cáo đã lừa dối ngay cả với những người tin tưởng mình để chiếm đoạt tài sản nhằm thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân. Vì vậy HĐXX sẽ xem xét, cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục bị cáo.

-Tình tiết tăng nặng: không có.

-Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, và bồi thường thiệt hại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có địa chỉ cư trú rõ ràng, nên không cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú để bị cáo thấy được tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

Đối với Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 13/2021/HSST-LCĐKNCT ngày 02/4/2021 cần được hủy bỏ.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị cáo đã bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tại phiên tòa bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nhưng trong giai đoạn điều tra những người này không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Đã được xử lý trong giai đoạn điều tra, nên không xem xét, đề cập.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố

Bị cáo Đào Minh T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn c ứ vào: Khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đào Minh T 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Đào Minh T cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường N, thành phố U trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

2. Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự: Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 13/HSST-LCĐKNCT ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo T.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Đào Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp Ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về