Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về không công nhận là vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 387/2020/TLST-HNGĐ ngày 03/11/2021 về việc: “Không công nhận là vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trung K, sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn 6, xã G, huyện L, tỉnh L.

2. Bị đơn: Bà Cao Thị X, sinh năm 1970. Địa chỉ: Thôn 6, xã G, huyện L, tỉnh L.

(Ông K có mặt, bà X có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Nguyễn Trung K trình bày:

Tôi chung sống với bà X năm 1989, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Vợ chồng tôi có làm thủ tục đăng ký kết hôn ngay sau khi cưới tại Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm. Tuy nhiên, cách đây khoảng 10 năm, tôi đã làm thất lạc mất bản chính giấy đăng ký kết hôn. Tôi có liên hệ đến Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm xin trích sao nhưng Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm kiểm tra trong sổ đăng ký kết hôn của xã không có nội dung đăng ký kết hôn giữa tôi và bà X nên không cấp bản sao cho tôi. Sau nhiều năm chung sống thì đã nảy sinh mâu thuẫn cả về tình cảm và kinh tế năm 2004 đến nay đã sống ly thân. Tuy có sự nhẩn nhịn nhưng ngày càng lớn dần, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung do vậy, ông giữ nguyên yêu cầu ly hôn với bà Cao Thị X.

Về con chung: Chúng tôi có ba con chung là Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 13/10/1989; Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 26/02/1999 và Nguyễn Đinh Khánh, sinh ngày 03/6/1994. Khi ly hôn, tôi xác định các con chung đều đã trưởng thành và phát triển bình thường nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Tôi xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Tôi xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, ông K không còn yêu cầu gì khác.

Bị đơn bà Cao Thị X trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi chung sống với ông Nguyễn Trung K từ năm 1987 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Vợ chồng có làm thủ tục đăng ký kết hôn ngay sau khi cưới tại Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm.

Tuy nhiên, cách đây khoảng 10 năm, tôi đã làm thất lạc mất bản chính giấy đăng ký kết hôn. Tôi có liên hệ đến Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm xin trích sao nhưng Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm, huyện Lâm Hà kiểm tra trong sổ đăng ký kết hôn của xã không có nội dung đăng ký kết hôn giữa tôi và ông K nên không cấp bản sao cho tôi. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 20 năm thì phát sinh mâu thuẫn vào năm 2004. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông K có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát nhau. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân nhau đến nay được khoảng 10 năm nhưng quan hệ tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Hiện nay, ông K đã chung sống với người phụ nữ khác và đã có con riêng. Nay ông K xin ly hôn, tôi xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, kéo dài, mục địch hôn nhân không đạt được nên tôi đồng ý giải quyết không công nhận là vợ chồng với ông K.

- Về con chung, các con chung như ông K trình bày là đúng. Khi ly hôn, các con chung đều đã trưởng thành và phát triển bình thường nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tôi không có tài sản chung, không có nợ chung nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, bà X không trình bày gì thêm.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành. Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Trung K có mặt vẫn giữ nguyên ý kiến yêu cầu khởi kiện. Bị đơn bà Cao Thị X có mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trung K, không công nhận ông Nguyễn Trung K và Cao Thị X là vợ chồng. Về con chung: Ông K, bà X có ba con chung là Nguyễn Thị Quỳnh Chi, sinh năm 1989; Nguyễn Minh Khôi, sinh năm 1999 và Nguyễn Đinh Khánh, sinh năm 1994. Hiện nay các con chung đều đã trưởng thành và phát triển bình thường nên không đề cập giải quyết. Về tài sản chung: Ông K, bà X xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không đề cập giải quyết. Về nợ chung: Ông K, bà X xác định vợ chồng không có nợ chung nên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Buộc ông Nguyễn Trung K phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc yêu cầu giải quyết không công nhận là vợ chồng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Trung K, bà Cao Thị X chung sống với nhau từ năm 1989 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán vào năm 1987 thời điểm đó vợ chồng ông, bà có làm thủ tục đăng ký kết hôn ngay sau khi cưới tại Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, cách đây khoảng 10 năm, ông bà đã làm thất lạc mất bản chính giấy đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống ông bà sống thời gian đầu hòa thuận và hạnh phúc đến năm 2004 không hạnh phúc do mâu thuẫn về kinh tế và quan hệ tình cảm nên ông, bà đã sống ly thân từ đó đến nay. Nay ông K xác định đã sống ly thân với bà X từ lâu, tình cảm vợ chồng không còn nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận là vợ chồng với bà X. Bà Cao Thị X xác định giữa bà và ông K có mâu thuẫn do ông K có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, bà xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, kéo dài, mục địch hôn nhân không đạt, đã sống ly thân từ lâu không còn quan tâm đến nhau nữa bà đồng ý giải quyết không công nhận là vợ chồng với ông K.

Tòa án đã tiến hành xác minh các tổ chức đoàn thể về quan hệ hôn nhân của ông K bà X thì tại địa phương thấy rằng mâu thuẫn giữa ông K, bà X đã trầm trọng, ông bà đã sống ly thân được gần 10 năm nay, hiện tại ông K đã chung sống với người phụ nữ khác và đã có con riêng.

Do đó, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện tại cũng không thể mang lại hạnh phúc cho các bên đương sự. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận đơn xin ly hôn của ông K, không công nhận ông Nguyễn Trung K và bà Cao Thị X là vợ chồng là hoàn toàn phù hợp.

[2]. Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm thì ông K bà X chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã từ khi xã thành lập xã đến nay.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân của ông Khóa, bà X đã được Tòa án tiến hành xác minh nhưng không xác định được việc đăng ký kết hôn, trong khi quan hệ hôn nhân giữa ông K và bà X xác lập sau ngà 03/01/1987 không đăng ký kết hôn nên căn cứ khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tuyên bố không công nhận bà X và ông K là vợ chồng là phù hợp.

[3]. Về con chung: Vợ chồng ông K, bà X có ba con chung là Nguyễn Thị Quỳnh Chi, sinh ngày 13/10/1989; Nguyễn Minh Khôi, sinh ngày 26/02/1999 và Nguyễn Đinh Khánh, sinh ngày 03/6/1994. Khi ly hôn, ông, bà xác định các con chung đều đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra để xem xét.

[4]. Về tài sản chung: Ông, bà xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5]. Về nợ chung: Ông, bà xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Buộc Khóa phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đối với yêu cầu giải quyết không công nhận là vợ chồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1/ Tuyên bố không công nhận ông Nguyễn Trung K và bà Cao Thị X là vợ chồng.

2/ Về án phí: Buộc Ông Nguyễn Trung K phải chịu số tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông Nguyễn Trung K đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA2016/0014864 ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ông Nguyễn Trung K đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (23/4/2021) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về không công nhận là vợ chồng

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về