TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐỐP, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 34/2020/HSST NGÀY 29/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bù Đốp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2020/HSST ngày 04 tháng 6 năm 2020; đối với bị cáo:
NGUYỄN THANH T (Tùng Út T) – sinh năm: 1987; tại: tỉnh Tây Ninh; giới tính: Nam; HKTT: khu phố T, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Phước; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Cao Đài; trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Tài Xế; con ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1990 và có 01 (một) người con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện B từ ngày 16/01/2020 đến nay (có mặt tại phiên tòa).
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Lê Nguyên A, sinh năm 1988; địa chỉ: khu phố T, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).
2. Lê Thành Ú, sinh năm 1999; địa chỉ: ấp 8, xã T, huyện, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).
3. Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1990; địa chỉ: khu phố T, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Phước (có mặt).
- Người làm chứng: Huỳnh Thanh P, sinh năm 2005; địa chỉ: ấp 8, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).
- Người giám hộ cho Huỳnh Thanh P là ông Huỳnh Văn L, sinh năm 1979; địa chỉ: ấp 8, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thanh T là đối tượng nghiện ma túy, thường mua ma túy về sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy khác. Vào sáng ngày 16/01/2020, Lê Nguyên A là đối tượng nghiện ma túy gọi điện thoại cho Nguyễn Thanh T để hỏi mua ma túy về sử dụng thì T đồng ý bán. Khoảng 11 giờ ngày 16/01/2020, A đến nhà của T ở khu phố T, thị trấn T, huyện, tỉnh Bình Phước để mua ma túy. Tại đây, A đưa cho T số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và được T đưa cho 01 (một) bịch ny lon có khóa kéo bên trong chứa ma túy đá, khi A vừa cầm gói ma túy đi về thì Lê Thành Ú cùng với Huỳnh Tấn P đến mua ma túy. Khi đến nhà T, P đứng ở ngoài cổng chờ còn Ú vào hỏi T mua 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) ma túy đá và được T đưa cho 01 (một) bịch ny lon có khóa kéo bên trong chứa ma túy đá, khi Lê Thành Ú vừa cầm gói ma túy đi ra phía ngoài cổng thì bị lực lượng Công an huyện B phối hợp với Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Phước bắt quả tang Lê Nguyên A, Lê Thành Ú đang để ma túy ở trong người. Thấy vậy, Nguyễn Thanh T bỏ chạy ném số ma túy còn lại về phía bồn nước phía sau nhà thì bị lực lượng Công an đuổi theo bắt giữ.
Lực lượng Công an đã thu giữ trên người của Lê Nguyên A 01 (một) bịch ny lon màu trắng có khóa kéo bên trong có chứa tinh thể màu trắng (Ký hiệu M2 ); 01 (một) điện thoại di động hiệu FPT màu xanh.
Thu giữ trên người của Lê Thanh Ú 01 (một) bịch ny lon màu trắng có khóa kéo bên trong có chứa tinh thể màu trắng (Ký hiệu M3 ); 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu vàng.
Thu giữ của Nguyễn Thanh T: Tại khu vực nền đất gần bồn nước phía sau nhà của Nguyễn Thanh T 01 (một) bịch ny lon màu trắng có khóa kéo bên trong có chứa tinh thể màu trắng do T bỏ chạy ném ra (Ký hiệu M1); thu giữ trên người của T số tiền 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) để trong túi quần bên trái; số tiền 2.363.000đ (hai triệu ba trăm sáu mươi ba nghìn đồng) để trong bóp da trong túi quần và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen.
Cơ quan điều tra Công an huyện B đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi mua bán trái phép chất ma túy đối Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn A, Lê Thành Ú, đồng thời tiến hành khám nghiệm hiện trường, lập biên bản kiểm tra cuộc gọi điện thoại từ số điện thoại di động của Nguyễn Thanh T ( 0979897809) với số điện thoại di động của Lê Nguyên A ( 0333095298), số điện thoại của Lê Thành Ú ( 0332865760), qua kiểm tra xác định cuộc gọi điện thoại di động từ số di động của A đến số di động của Tg lúc 11 giờ 07 phút thời lượng 35 giây; cuộc gọi đi từ số điện thoại di động của Út gọi cho số thoại di động của T lúc 10 giờ 25 phút 24 giấy.Sau khi lập biên bản bắt người phạm tội quả bắt quả tang, Cơ quan điều tra Công an huyện B đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thanh T.
Lực lượng Công an thu giữ 03 (ba) bịch nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng để trong hộp bóng đèn rạng đông trên giường gỗ trong nhà (Ký hiệu M4 ); 01 (một) bịch nylon chứa tinh thể màu trắng trên sàn tủ gỗ để quần áo ở khu vực nhà bếp (Ký hiệu M6 ); 01 (một) bịch nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng để dưới mặt giường gỗ, trên chân giường trước bên phải nhìn từ ngoài cửa vào (Ký hiệu M5).
Tại bản kết luận giám định số: 12/2020/GĐ –MT ngày 20/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:
Tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại methamphetamine, khối lượng là: 1,0028gam.
Tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,0699 gam.
Tinh thể màu trắng (ký hiệu M3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,0527 gam.
Tinh thể màu trắng (ký hiệu M4) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,3032 gam.
Tinh thể màu trắng (ký hiệu M5) được niêm phong gửi giám định không tìm thấy các chất Ma túy thuộc Danh mục của Nghị định số 73/2018/NĐ-CP của Chính phủ, mẫu có khối lượng là: 3,9440 gam.
Tinh thể màu trắng (ký hiệu M6) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,2976 gam.
Quá trình điều tra Nguyễn Thanh T khai nhận T là đối tượng nghiện ma túy, biết các đối tượng có nhu cầu mua ma túy về sử dụng nên Tùng đã mua số ma túy của người thanh niên tên K ở công viên huyện B và mua của người làm nghề xe ôm ở Thành phố Hồ Chí Minh về để sử dụng, sau khi sử dụng, số ma túy còn lại T để bán cho người khác nhằm thu lợi.
Cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 02/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trong bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và kết luận, không tham gia tranh luận, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tại phiên tòa khẳng định bị cáo có hành vi như trong bản cáo trạng đã truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo 08 (tám) năm tù đến 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 16/01/2020).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tranh luận.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người làm chứng. Hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án: Do muốn có tiền để mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân, vào sáng ngày 16/01/2020 tại nhà của bị cáo Nguyễn Thanh T thuộc địa phận khu phố T, thị trấn T, huyện B, bị cáo T đã có hành vi bán cho Lê Nguyên A 01 (một) bịch nylon, bên trong là ma túy đá với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và bán cho Lê Thành Ú 01 (một) bịch nylon, bên trong là ma túy đá với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Khi bị cáo T và Lê Nguyên A, Lê Thành Ú vừa hoàn thành xong việc giao dịch mua bán thì bị lực lượng Công an huyện B phối hợp với Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Phước bắt quả tang và thu giữ người cùng toàn bộ vật chứng của vụ án. Theo kết luận giám định số 12/2020/GĐ –MT ngày 20/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận Tinh thể màu trắng (thu giữ trên người A) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,0699 gam. Tinh thể màu trắng (thu giữ trên người Ú) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,0527 gam. Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do bị cáo thực hiện hành vi bán ma túy cho 02 (hai) người nên tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo biết rõ hành vi mua ma túy sau đó về bán lại cho các con nghiện đề hưởng tiền chênh lệch là vi phạm pháp luật nhưng để có tiền mua ma túy để thỏa mãn nhu cầu của bản thân khi đã bước chân vào con đường nghiện ngập, bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
[3] Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy. Ma túy là một trong những tệ nạn mà Đảng và Nhà nước kiên quyết bài trừ. Cũng từ tệ nạn ma túy mà nảy sinh ra nhiều tệ nạn xã hội và các hành vi tiêu cực khác như trộm cắp, cướp tài sản, giết người….. Đồng thời cũng vì ma túy nảy sinh ra căn bệnh thế kỷ HIV… làm phá hoại đạo đức ảnh hưởng giống nòi và nếp sống văn minh của nhân loại. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc mua bán ma tuý của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.
[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Xét về nhân thân:
Ngày 10/12/2008, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng về tội “Chống người thi hành công vụ” tại Bản án số: 41/2008/HSST, bị cáo đã chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo đã được xóa án tích.
Ngày 10/7/2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” tại Bản án số: 24/2012/HSST, đến ngày 20/7/2013 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo đã chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và nghĩa vụ bồi thường trong bản án, bị cáo đã được xóa án tích.
Ngày 12/3/2014, bị cáo bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản với số tiền 75.000.000đồng tại Quyết định số: 511/QĐ-XPVPHC , bị cáo đã chấp hành xong.
Ngày 18/11/2015, bị cáo bị Công an thị trấn T, huyện B xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 750.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định số: 01/QĐ –XPVPHC, bị cáo đã chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính vào năm 2016.
[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là lao động chính trong gia đình và đang nuôi con nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, HĐXX cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Đối với Lê Nguyên A có hành vi mua 0,0699 gam Methamphetamine và Lê Thành Ú có hành vi mua 0,0527 gam ma túy loại Methamphetamine của Nguyễn Thanh T, mục đích của A và Ú là mua ma túy về để sử dụng. A và Ú chưa có tiền án, tiền sự về hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng ma túy do A và Ú mua của Nguyễn Thanh T chưa đủ định lượng để xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên hành vi của A và Ú đã vi phạm điểm a khoản 2 Điều 11 Nghị định 167 ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy chữa cháy, phòng chống bạo lực gia đình, nên ngày 20/4/2020 Cơ quan điều tra Công an huyện B đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lê Nguyên A và Lê Thành Ú là có căn cứ.
Đối với Huỳnh Tấn P là người đi cùng Ú không có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý hành chính đối với P là có căn cứ.
[5] Về vật chứng vụ án:
Đối với ổ đĩa ghi dữ liệu Camera hiệu TOSHIBA MQ01ABD050; 01 (một) điện thoại di động hiệu FPT màu xanh, 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu vàng không liên quan đến vụ án, nên ngày 20/01/2020 Cơ quan điều tra Công an huyện B đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là Nguyễn Thị Thu H, Lê Nguyên A, Lê Thành Ú là có căn cứ.
Đối với số tiền 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen thu giữ của bị cáo T. Do bị cáo sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy, còn giá trị sử dụng, cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
Đối với 01 (một) bóp da màu đen bên trong có chứa 2.363.000đ (hai triệu ba trăm sáu mươi ba nghìn đồng) là tài sản cá nhân của bị cáo T, bị cáo không sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy, cần trả lại cho bị cáo.
Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng là: M1 =0,8469 gam, M4 = 0,2439 gam, M5= 3,2655 gam, M6= 0,2164 gam; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy (chai nhựa có gắn ống thủy tinh và ống nhựa ); 01 (một) hộp giấy hình trụ có chữ Rạng Đông dùng để dựng 03 (ba) bịch ny lon chứa ma túy), cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Xét đề xuất của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B về mức hình phạt là phù hợp với nhận định của Hộ đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật hình sự
Xử phạt Nguyễn Thanh T 08 (tám) năm tù; thời hạn tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 16/01/2020).
2. Về vật chứng:
Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen.
Tuyên trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) bóp da màu đen bên trong có chứ 2.363.000đ (hai triệu ba trăm sáu mươi ba nghìn đồng).
Tuyên tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng là: M1 =0,8469 gam, M4 = 0,2439 gam, M5= 3,2655 gam, M6= 0,2164 gam; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy (chai nhựa có gắn ống thủy tinh và ống nhựa ); 01 (một) hộp giấy hình trụ có chữ Rạng Đông dùng để dựng 03 (ba) bịch ny lon chứa ma túy).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0007638 ngày 21/5/2020 giữa Chi cục thi hành án dân sự dân sự huyện Bù Đốp và công an huyện Bù Đốp).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 34/2020/HSST ngày 29/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 34/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về