Bản án 34/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 34/2020/HS-ST NGÀY 24/04/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L X xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 03 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn V, sinh năm 1992, tại tỉnh An Giang; HKTT: ấp H T, xã M T, huyện C T, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở hiện nay: số 6G, khóm P Q, phường M L, thành phố L X, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 05/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Thu Tr, sinh năm 1971; bị cáo có vợ là Phạm Thị Thúy L, sinh năm 1991 và 01 người con sinh năm 2010; nhân thân: Từ nhỏ sống chung với cha mẹ tại phường M L, thành phố L X, đi học hết lớp 5 thì nghỉ; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15 tháng 01 năm 2020 đến nay, có mặt.

- Bị hại:

+ Bà Huỳnh Thị Ch, sinh năm 1981; địa chỉ: Khu dân cư ấp M K 2, xã M H H, thành phố L X, tỉnh An Giang, vắng mặt.

+ Ông Đỗ Văn Đ, sinh năm 1999; địa chỉ: Khu dân cư ấp M K 2, xã M H H, thành phố L X, tỉnh An Giang, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Phạm Ngọc Hải Q, sinh năm 1971; nơi cư trú: số 474G, khóm Đ A 6, phường M X, thành phố L X, tỉnh An Giang, vắng mặt;

+ Bà Nguyễn Thị Thu Tr, sinh năm 1971; nơi cư trú: số 8/2, đường B Đ, khóm 2, phường M L, thành phố L X, tỉnh An Giang, vắng mặt;

+ Ông Trần Ngọc D, sinh năm 1997; nơi cư trú: số 477/9A, khóm T K 2, phường M H, thành phố L X, tỉnh An Giang, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu năm 2017, chị Huỳnh Thị Ch vay 30.000.000 đồng của Phạm Ngọc Hải Q nhưng không làm hợp đồng, trong đó 20.000.000 đồng vay không kỳ hạn, lãi 200.000 đồng mỗi ngày, Ch đóng lãi được 1.000.000 đồng thì ngưng nhưng không trả vốn cho Q và 10.000.000 đồng vay trả góp trong 40 ngày, mỗi ngày trả 300.000 đồng, Ch trả được 3.600.000 đồng thì ngưng. Đến ngày 30 tháng 11 năm 2017, Q rủ Nguyễn Thị Thu Tr và Nguyễn Tuấn V (con ruột của Tr) đến nhà Ch tại khu dân cư ấp M K 2, xã M H H, thành phố L X để đòi nợ. Tại đây, Ch viết giấy xác nhận còn nợ của Q 25.400.000 đồng, mỗi ngày trả 100.000 đồng, mỗi tháng trả thêm 5.000.000 đồng thì Q đồng ý. Q kêu V giúp Q mỗi ngày đến nhà Ch nhận tiền về giao lại cho Q nhưng Ch chỉ trả được khoảng 3.000.000 đồng thì không còn khả năng trả nợ nên lánh mặt Q.

Đến khoảng 04 giờ ngày 04 tháng 02 năm 2019, V đến khu dân cư ấp M K2, xã M H H thấy Ch đang ở nhà nên gọi điện thoại cho Tr báo cho Q biết. Sau đó, Tr rủ và điều khiển xe mô tô chở Trần Ngọc D (cháu ruột của Tr) cùng Q (điều khiển xe mô tô đi một mình) đến nhà Ch. Đến đây, Tr đứng bên ngoài kêu Ch ra nói chuyện thì bà Nguyễn Thị Kh(mẹ ruột Ch) ra mở cửa. Tr bước vào nhà gặp Ch đòi nợ nhưng Ch cho biết không có tiền nên Tr dùng tay tát vào mặt Ch 01 cái. Lúc này, Q, V bước vào nhà tiếp tục đòi nợ Ch, còn D đứng ở cửa ra vào. Do Ch không có tiền trả nợ nên Q nói với Tr, V, D lấy 02 xe mô tô đang dựng trong nhà, khi nào Ch trả nợ thì sẽ trả xe. V vào dẫn xe mô tô nhãn hiệu A, kiểu dáng F, biển số 67M6-8613 (xe không rút chìa khóa) của Ch, còn Q dẫn xe mô tô nhãn hiệu W, màu đỏ, biển số 67M2-0849 của anh Đỗ Văn Đ (con ruột của Ch) ra ngoài đưa cho D. Thấy vậy, bà Khoe, anh Đ nắm xe mô tô 67M2- 0849 kéo lại và nói xe này của Đ thì bị Q quát nạt nên anh Đ, bà Khbuông xe ra. Sau đó, Tr kêu D điều khiển xe mô tô 67M6-8613 về để ở nhà Tr tại phường M L, thành phố L X. Còn Q điều khiển xe mô tô của Q đẩy xe mô tô 67M2-0849 do V điều khiển đến bến phà Trà Ôn. Tại đây, Q và V nối dây điện mở công tắc xe mô tô 67M2-0849 cho V sử dụng.

Đến 16 giờ ngày 04 tháng 02 năm 2019, Ch đến Công an xã M H H trình báo sự việc trên.

Đến 20 giờ ngày 04 tháng 02 năm 2019, Q kêu V đem xe mô tô 67M2- 0849 đến Công an phường M X giao nộp, Tr đem xe mô tô 67M6-8613 đến Công an thành phố L X giao nộp.

* Kết luận về việc xác định giá trị tài sản số 17/KL.HĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L X xác định:

- Xe mô tô nhãn hiệu W, kiểu dáng W A, biển số 67M2-0849 trị giá 4.037.000 đồng;

- Xe mô tô nhãn hiệu A, kiểu dáng F, biển số 67M6-8613 trị giá 3.670.000 đồng.

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, Q, Tr, D bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Riêng V bỏ trốn nên bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L Xtruy nã, đến ngày 15 tháng 01 năm 2020 thì bị bắt giữ.

Tại Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 25 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L X đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn V về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo V thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo V từ 01 năm – 01 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L X, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo: xuất phát từ việc bị hại Huỳnh Thị Ch vay tiền của Q nhưng không trả nợ mà bỏ đi sinh sống ở địa phương khác. Được tin Ch trở về nhà trong dịp tết nguyên đán thì các bị cáo Q, Tr, Trần Ngọc D và V đến nhà Ch để đòi nợ nhưng Ch cho biết không có tiền trả nợ thì Tr dùng tay tát vào mặt Ch một cái. Sau đó, Q kêu Tr, V, D lấy 02 xe mô tô biển số 67M6- 8613 và 67M2-0848 đang dựng trong nhà, khi nào Ch trả nợ thì sẽ trả xe. V vào dẫn xe mô tô biển số 67M6-8613 của Ch, còn Q dẫn xe mô tô biển số 67M2- 0849 của anh Đỗ Văn Đ ra ngoài đưa cho D. Thấy vậy, bà Khoe, anh Đ nắm xe mô tô 67M2-0849 kéo lại và nói xe này của Đ thì bị Q quát nạt nên anh Đ, bà Kh buông xe ra. Sau đó, Tr kêu D điều khiển xe mô tô 67M6-8613 về để ở nhà Tr tại phường M L, thành phố L X. Còn Q điều khiển xe mô tô của Q đẩy xe mô tô 67M2-0849 do V điều khiển đến bến phà Tr Ô nối dây điện mở công tắc xe mô tô 67M2-0849 cho V nổ máy xe mang về nhà.

Lời khai của bị cáo V tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo V ở giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với lời khai của Q, Tr, D cũng như lời lời của bị hại bà Ch, ông Đ.

Từ các chứng cứ trên, có cơ sở xác định, do bị hại vay tiền của Q nhưng không trả nên bị cáo V đã cùng với Q, Tr, D uy hiếp tinh thần của bị hại để chiếm đoạt tài sản.

Kết luận về việc xác định giá trị tài sản số 17/KL.HĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L X xác định:

- Xe mô tô nhãn hiệu W, kiểu dáng W A, biển số 67M2-0849 trị giá 4.037.000 đồng;

- Xe mô tô nhãn hiệu A, kiểu dáng F, biển số 67M6-8613 trị giá 3.670.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là 7.707.000 đồng.

Bị cáo là người có công việc ổn định, là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L X truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L Xtại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, quyền sở hữu là một trong những quyền thiêng liêng gắn với mỗi cá nhân, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, đáp ứng quy định của pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu, sức khỏe của bà Huỳnh Thị Ch mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với Phạm Ngọc Hải Q, Nguyễn Thị Thu Tr, Trần Ngọc D đã bị Tòa án nhân dân thành phố L X xét xử về tội “Cưỡng đoạt tài sản” nên không đề cập.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò tội phạm:

Trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; phạm tội gây ra thiệt hại không lớn được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: không đề cập giải quyết.

[6] Về trách nhiệm dân sự: không đề cập giải quyết.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 170, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản;

Xử phạt: Nguyễn Tuấn V 01 (Một) năm tù;

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 15/01/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: không đề cập giải quyết.

3. Về xử lý vật chứng: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn V phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Thời hạn kháng cáo của bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:34/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về