Bản án 34/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội vận chuyển và buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 34/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN VÀ BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 131/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2020, Thông báo tạm dừng phiên tòa ngày 12 tháng 3 năm 2020, Thông báo dời phiên toà hình sự ngày 28 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN TRẦN P, sinh năm: 1973 tại N. Nơi ĐKNKTT: Khu phố 6, pC V, thành phố P, tỉnh N; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông Nguyễn Đ (chết) và bà Trần Thị H; chồng: Huỳnh Th và 03 con; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 06 tháng 9 năm 2017, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh N ban hành Quyết định số 1756/QĐ- XPHC xử phạt 70.000.000 đồng do có hành vi buôn bán 750 bao thuốc lá điếu nhập lậu. Bị cáo tạm giam từ ngày 30/4/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. TRẦN THỊ C, sinh ngày: 23/3/1960 tại thành phố H; Nơi ĐKNKTT: Khu vực A, thị trấn B, huyện Đ, tỉnh L; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt N; Là trẻ mồ côi nên không biết tên cha mẹ ruột; Chồng: Huỳnh Văn T và 02 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 30/4/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. TRẦN VĂN N, sinh ngày: 20/10/1983 tại tỉnh Ph; Nơi ĐKNKTT: thôn D, xã H, huyện T, tỉnh P; Chỗ ở hiện nay: cư xá TT, quận X, thành phố Y; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N; Con ông Trần V và bà Lê Thị K; Vợ: Đào Thị Minh T (đã ly hôn) và 01 con hiện sống cùng với chị T; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 30/4/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngƣời làm chứng (đều có mặt):

- Ông Trần Z, sinh năm: 1956, trú: khu phố 5, pC Mỹ Đông, thành phố P.

- Anh Trần O, sinh năm: 1991, trú: CC đường B, pC S, quận J, thành phố I.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ ngày 30/4/2019, Phòng Cảnh sát kinh tế (PC03) Công an tỉnh N đi tuần tra trên đường bờ đê Sông D thuộc khu phố R pC M, phát hiện xe ô tô BKS: 51H – 018xx do Trần Văn N điều khiển cùng với Trần Thị C đang dừng xe bốc các bao hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu từ trên xe ô tô xuống giao cho Nguyễn Trần P và Trần Z để sau đó sẽ vận chuyển về tiệm tạp hóa H. K tại khu phố E pC V cho Nguyễn Trần P. Qua kiểm tra thực tế có tổng cộng 480 cây (4.800 bao) thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất nhãn hiệu Scott không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Trần P, Trần Thị C, Trần Văn N và Trần Z đồng thời tạm giữ toàn bộ tang vật.

Quá trình điều tra xác định: Nguyễn Trần P là chủ tiệm tạp hóa HK, kinh doanh mặt hàng tiêu dùng. Trong quá trình mua bán, P có mua thuốc lá điếu ngoại nhập của một người phụ nữ tên F ở thành phố Hồ Chí Minh về bán kiếm lời. Sau đó P nợ tiền mua thuốc lá của F nên F không bán cho P nữa mà giới thiệu Trần Thị C bán thuốc lá nhãn hiệu Scott cho P. Vào ngày 29/4/2019, P điện thoại liên hệ với C để thỏa thuận đặt mua 200 cây (2000 bao) thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott với giá 135.000 đồng/cây và thỏa thuận nếu C cho nợ thì sẽ mua thêm 100 cây (1000 bao), tổng cộng P đặt mua 300 cây (3000 bao) thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott, C đồng ý và hẹn nhau ngày 30/4/2019 C chở thuốc lá từ TP. I ra giao cho P. Sau khi thỏa thuận xong, C điện thoại cho người phụ nữ tên DD số điện thoại 0977535461 để đặt mua thuốc lá. Sau đó, C điện thoại cho Trần Văn N để thuê xe và nói N chuẩn bị xe để ngày 30/4/2019 vận chuyển thuốc lá đi N giao cho khách thì N đồng ý.

Khong 12 giờ ngày 30/4/2019, N điều khiển xe ô tô BKS: 51H-018xx chở C cùng 4.800 bao thuốc lá ra N để giao bán cho P. Khi đến địa bànTP. P, C liên lạc với P ra đón để chỉ địa điểm giao hàng. Lúc này, P điện thoại thuê Trần Z cùng đi để vận chuyển thuốc lá về tiệm tạp hóa của P. Khi đi, P điều khiển xe mô tô BKS: 85V5 – 5460 đi cùng Thành điều khiển mô tô BKS: 85B1 – 154xxđến khu vực ngã 3 LB đón C và hướng dẫn đi đến đường bờ đê S thuộc khu phố 3 phường M. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, khi N cùng C đang bốc hàng xuống để giao cho P thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang.

Cáo trạng số 04/QĐ-VKSPR ngày 26/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố các bị cáo về tội danh và hình phạt như sau:

- Bị cáo Nguyễn Trần P về “tội buôn bán hàng cấm” thuộc trường hợp buôn bán hàng hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao, theo Điểm e, Khoản 2, Điều 190 Bộ luật hình sự;

- Bị cáo Trần Thị C về “tội buôn bán hàng cấm” thuộc trường hợp buôn bán hàng hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên, theo điểm b, khoản 3 Điều 190 Bộ luật hình sự ;

- Bị cáo Trần Văn N về “tội vận chuyển hàng cấm”, thuộc trường hợp vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Trần P từ 05 năm tù đến 06 năm tù về tội về “tội Buôn bán hàng cấm” theo điểm e khoản 2 điều 190, điểm s khoản 1 điều 51Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Thị C 06 năm đến 07 năm tù về “tội Buôn bán hàng cấm” theo điểm b khoản 3 điều 190, điểm s khoản 1 điều 51, điều 54 Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Văn N 30 tháng đến 36 tháng về “tội Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 54 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án. Các bị cáo không tham gia tranh luận. Khi nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận: Nguyễn Trần P đặt mua 300 cây (3.000 bao) thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott của Trần Thị C để bán lại kiếm lời, C đồng ý và thuê Trần Văn N vận chuyển. Ngày 30/4/2019, Trần Văn N điều khiển xe ô tô 51H-018xx chở C cùng 480 cây (4.800 bao) thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott đi từ thành phố I ra tỉnh N để giao bán cho P. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, khi N cùng C đang bốc hàng xuống để giao cho P thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ tang vật. Thuốc lá điếu thành phẩm nhập lậu mà các bị cáo buôn bán, vận chuyển thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh do Chính Phủ quy định. Do đó Cáo trạng số 04/QĐ-VKSPR ngày 26/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố Bị cáo Nguyễn Trần P về “tội buôn bán hàng cấm” thuộc trường hợp buôn bán hàng hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao, theo điểm e, Khoản 2, Điều 190 Bộ luật hình sự; bị cáo Trần Thị C bị truy tố về “tội buôn bán hàng cấm” thuộc trường hợp buôn bán hàng hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên, theo điểm b, khoản 3 Điều 190 Bộ luật hình sự ; bị cáo Trần Văn N về “tội vận chuyển hàng cấm”, thuộc trường hợp vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi nêu trên của Nguyễn Trần P, Trần Thị C và Trần Văn N không những xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo P đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi bưôn bán hàng cấm, chưa nộp tiền phạt nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi này, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo. Ông nội của bị cáo N được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo C và N đều có nhân thân tốt. Ngoài ra, các bị cáo P, C và N đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải trong quá trình điều tra, xét xử nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS và áp dụng điều 54 Bộ luật Hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

[4] Về xử lý vật chứng:

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ một số tài sản xét thấy không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho chủ sở hữu gồm:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu O F5, màu hồng nhạt và 01 điện thoại di động hiệu S màu đen trả lại choTrần Văn N.

+ 01 điện thoại di động hiệu Ml, màu đen trả lại cho Trần Z.

Đối với xe ô tô BKS: 51H-018.xx, nhãn hiệu Hoda CiTy, màu sơn trắng, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là ông Trần O – sinh là em ruột của Trần Văn N. Ông O cho N mượn xe nhưng không biết N sử dụng xe trên để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an tỉnh N đã trả lại xe ô tô cho ông O.

Đối với xe mô tô BKS: 85B1 – 154xx loại Dream do ông Trần Z sử dụng để đi vận chuyển thuốc lá cho bị can P, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là Trần Ngọc G (là con ruột của ông Z). G cho ông Z mượn sử dụng chạy xe thồ và không biết ông Z sử dụng xe đi vận chuyển thuốc lá nhập lậu nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho G.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Đối với 4.800 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott do Cơ quan điều tra thu giữ, Hội đồng xét xử xét thấy nên tịch thu tiêu hủy.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử xét thấy nên tịch thu sung quỹ nhà nước các phương tiện do các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội:

+ 01 điện thoại di động hiệu N màu trắng được sử dụng để liên lạc mua thuốc lá; 01 xe mô tô biển kiểm soát 85V5 – 54xx, nhãn hiệu Honda và số tiền: 31.770.000 đồng của Nguyễn Trần P với mục đích trả tiền mua thuốc lá.

+ 01 điện thoại di động hiệu S, màu vàng đen của Trần Thị C và 01 điện thoại di động nhãn hiệu S Galaxy M20 màu đen của Trần Văn N dùng để liên lạc mua bán vận chuyển thuốc lá.

[5] Đối với ông Trần Z là người được P thuê vận chuyển thuốc lá cho P với tiền công vận chuyển là 80.000 đồng/chuyến, P không nói rõ cho Z biết số lượng thuốc lá ôngh phải vận chuyển cũng như phải chở bao nhiêu chuyến. Mặc khác, quá trình điều tra không xác định được số lượng thuốc lá Z vận chuyển (do bị bắt quả tang khi Z chưa thực hiện vận chuyển) nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Z.

[6] Đối với người phụ nữ tên DD sử dụng số điện thoại 09775354xx là người đã bán 4.800 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott với bị can C. Hiện chưa rõ DD ở đâu, nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và đề nghị xử lý sau.

[7] Đối với người phụ nữ tên F sử dụng số điện thoại 03521759xx mà P và C giao dịch để mua bán thuốc lá điếu nhập lậu trước đó. Hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và đề nghị xử lý sau.

[8] Ngoài ra, Trần Thị C còn khai nhận trước đó khoảng tháng 12/2018, F có thuê C vận chuyển thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott từ thành phố Hồ Chí Minh đến thành phố P để giao cho P. Tuy nhiên quá trình điều tra, chưa xác định được nhân thân của F nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và đề nghị xử lý sau.

Về án phí: Mỗi Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trần P và bị cáo Trần Thị C phạm “tội buôn bán hàng cấm” . Bị cáo Trần Văn N phạm “tội vận chuyển hàng cấm”.

n cứ vào: Điểm e khoản 2 điều 190, điểm s khoản 1 điều 51, điều 54 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trần P 04 (bốn) năm 06 (sáu tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/4/2019.

n cứ vào: Điểm b khoản 3 điều 190, điểm s khoản 1 điều 51, điều 54 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị C 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/4/2019.

n cứ vào: Điểm b khoản 3 điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 54 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn N 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/4/2019.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 4.800 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Scott được niêm phong trong 10 bao nilon màu trắng.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước các phương tiện sau:

+ 01 điện thoại di động hiệu N màu trắng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 85V5 – 54xx, nhãn hiệu Honda của Nguyễn Trần P.

+ 01 điện thoại di động hiệu S, màu vàng đen của Trần Thị C.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu S Galaxy M20 màu đen của Trần Văn N.

Các vật chứng này hiện Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P ngày 07 tháng 01 năm 2020.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền: 31.770.000 (ba mươi mốt triệu bảy trăm bảy mươi ngàn) đồng của Nguyễn Trần P. Số tiền này này hiện Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P đang quản lý theo Uỷ nhiệm chi số 02 lập ngày 15/01/2020 do Công an thành phố P chuyển tiền cho Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P.

Về án phí: Mỗi Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt các bị cáo. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội vận chuyển và buôn bán hàng cấm

Số hiệu:34/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về