Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 34/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn- tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 167/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Th, sinh năm 1980. Địa chỉ: xóm Đa, xã Văn Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Bùi Văn Tr, sinh năm 1974. Địa chỉ: xóm Đa, xã Văn Nghĩa, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Bùi Thị Th trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn Tr kết hôn năm 2002 trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Nghĩa và tổ chức kết hôn theo phong tục tập quán địa phương. Thời gian đầu chung sống, hai vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương nhau, đến năm 2016 thì hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau khiến mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng. Cho đến thời điểm này chị xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn Tr.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị và anh Tr có 02 con chung là cháu Bùi Hải H, sinh ngày 12/11/2010; cháu Bùi Văn N, sinh ngày 25/11/2002. Vợ chồng ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bùi Hải H và đồng ý để anh Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu Bùi Văn N. Hai bên chưa phải cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung, công nợ: Hai vợ chồng tự thỏa thuận, không đề nghị tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị Th không có yêu cầu gì thêm.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Bùi Văn Tr trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Th kết hôn năm 2002 trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Nghĩa và tổ chức kết hôn theo phong tục tập quán địa phương. Thời gian đầu chung sống, hai vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương nhau, đến năm 2016 thì hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau khiến mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng. Hiện tại, anh Tr vẫn còn tình cảm với chị Th nên chị Th đề nghị ly hôn anh không đồng ý.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh Tr và chị Th có 02 con chung là cháu Bùi Hải H, sinh ngày 12/11/2010; cháu Bùi Văn N, sinh ngày 25/11/2002. Vợ chồng ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bùi Văn N và đồng ý để chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Bùi Hải H. Hai bên chưa phải cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung, công nợ: Hai vợ chồng tự thỏa thuận, không đề nghị tòa án giải quyết.

* Tại biên bản xác minh ngày ngày 24/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn chính quyền địa phương nơi cư trú của chị Bùi Thị Th và anh Bùi Văn Tr có nội dung:

Anh Bùi Văn Tr và chị Bùi Thị Th kết hôn năm 2002 trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Văn Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau đó tổ chức kết hôn theo phong tục tập quan địa phương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2016 thì hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn tin tưởng, không yêu thương, quan tâm chăm sóc nhau, hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, xung đột khiến mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh Tr và chị Th có 02 con chung là Bùi Hải H, sinh ngày 12/11/2010; cháu Bùi Văn N, sinh ngày 25/11/2002. Hiện nay, cả anh Tr và chị Th đang trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung.

Về điều kiện nuôi con của anh Tr và chị Th:

- Xét về yếu tố nhân phẩm, đạo đức: Anh Tr và chị Th luôn giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức, luôn vui vẻ, cởi mở, hòa đồng.

- Xét đến yếu tố kinh tế để nuôi con: anh Tr và chị Th đều có công việc chính là làm ruộng. Ngoài ra, anh chị còn đi làm thuê để kiếm thêm thu nhập. Do đó, cả anh Tr và chị Th đều đủ điều kiện kinh tế để nuôi con.

- Về thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng con: thời gian làm việc của anh Tr, chị Th không quá gò bó nên có đủ thời gian để dành cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về chỗ ở: anh Tr và chị Th có nhà cửa tại địa phương nên đủ điều kiện về chỗ ở để nuôi con.

*Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình công nhận việc chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX và các đương sự từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án.

Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: xác định mâu thuẫn giữa chị Th và anh Tr đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th.

- Về con chung: Đề nghị công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Giao cháu Bùi Văn N cho anh Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu Bùi Hải H cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Th và anh Tr chưa đề nghị cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nên đề nghị HĐXX chưa xem xét vấn đề cấp dưỡng nuôi con trong vụ án.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không tranh chấp nên không đề cập giải quyết trong vụ án.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị Th phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn là anh Bùi Văn Tr có hộ khẩu thường trú tại xóm Đa, xã Văn Nghĩa, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành thông báo và tống đạt đầy đủ các văn bản cho các bên đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 175 và khoản 1, 2 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 211 BLTTDS. Tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 205 BLTTDS để hai bên thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án. Chị Th và anh Tr đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa, đã được đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Bị đơn là anh Bùi Văn Tr đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh Tr.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Th và anh Tr được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị Th và anh Tr không có hạnh phúc do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột, hai vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau vì thế cuộc sống gia đình thường xuyên bất hòa. Từ những nhận định trên thấy mâu thuẫn giữa anh Tr và chị Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không thể đạt được nên HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th là phù hợp Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, anh Tr và chị Th có 02 con chung là cháu Bùi Hải H, sinh ngày 12/11/2010; cháu Bùi Văn N, sinh ngày 25/11/2002. Hiện nay, cả anh Tr và chị Th đang trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung. Vợ chồng ly hôn anh Tr và chị Th thỏa thuận: giao cháu Bùi Văn N cho anh Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu Bùi Hải H cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Hai bên chưa phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Trong quá trình giải quyết vụ án cháu Bùi Văn N trình bày nguyện vọng muốn ở với anh Tr khi bố mẹ ly hôn, cháu Bùi Hải H trình bày nguyện vọng muốn ở với chị Th khi bố mẹ ly hôn.

Theo quy định tại Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Trên cơ sở nguyên tắc này có thể hiểu người cha và người mẹ bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái trong thời kỳ tồn tại quan hệ hôn nhân và ngay cả khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Anh Tr và chị Th thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con, sự thỏa thuận này phù hợp với nguyện vọng của các con chung. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của con chung HĐXX nhận thấy cần công nhận sự thỏa thuận của anh Tr và chị Th.

[4] Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Do chị Th và anh Tr chưa đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn nên HĐXX không xem xét là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 luật Hôn nhân và Gia đình. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con sẽ được xử lý bằng một vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[5] Về tài sản chung, công nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 58; Điều 81, 82, 83, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Th được ly hôn với anh Bùi Văn Tr.

2. Về con chung, cấp dƣỡng: Công nhận sự thỏa thuận giữa các bên đương sự: Giao con chung là cháu Bùi Văn N, sinh ngày 25/11/2002 cho anh Bùi Văn Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu Bùi Hải H, sinh ngày 12/11/2010 cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Hai bên chưa phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Chị Bùi Thị Th phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003600 ngày 20 tháng 7 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn. Chị Bùi Thị Th đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thì hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai. Nguyên đơn có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc ngày niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:34/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về