Bản án 34/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2019/HSST ngày 25/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2019/QĐXXST-HS ngày 14/11/2019 đối với bị cáo:

Trần Văn Lý A, sinh năm 1992; nơi sinh: An Giang. Nơi cư trú: khu phố H, phường P, thành phố P, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở hiện nay: khu phố H, phường P, thành phố P, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị L; có vợ và 01 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: có 01 án tích về hành vi Cố ý gây thương tích; bị xử phạt 02 năm 06 tháng tù theo Bản án số 20/2012/HSST ngày 15/6/2012 của Tòa án nhân dân thị xã Hà Tiên (nay là thành phố Hà Tiên), tỉnh Kiên Giang; chấp hành xong án phạt tù ngày 27/4/2014; bị bắt tạm giữ từ ngày 24/7/2019 cho đến ngày 02/8/2019; ngày 02/8/2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị Sơn T (vắng mặt).

2. Anh Trần Hữu T (vắng mặt).

3. Anh Huỳnh Thanh T (vắng mặt).

4. Chị Nguyễn Thị Ngọc Nh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Văn Lý A khai nhận: khoảng 15giờ 30 phút ngày 24/7/2019 bị cáo được người phụ nữ tên T gọi điện thoại báo có đủ số lượng ma túy và hẹn giao nhận tại quán cà phê L thuộc khu phố H, phường P, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Gặp nhau cả hai vào quán uống nước và tiến hành giao nhận 01 bịch ma túy; trong đó có 02 bịch nhỏ với giá 1.000.000 đồng và hẹn khi nào có tiền trả cho. Giao nhận xong người phụ nữ tên T rời khỏi quán; bị cáo đang cầm bịch ma túy bên tay trái và định đi về nhà cất giấu sử dụng cá nhân thì bị lực lượng Công an ập vào kiểm tra và phát hiện bị cáo ném bịch ma túy xuống đất. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật.

Tại bản giám định số 475/KL-KTHS ngày 29/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận:

Các hạt tinh thể màu trắng đựng trong 02 (hai) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 1,2611 gam.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 1,1822 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về kết luận giám định chất ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang.

Về vật chứng vụ án thu giữ:

01. 01 (một) bịch nylon có rãnh gài, kích thước (6 x 4)cm, bên trong chứa 02 bịch nylon có rãnh gài, kích thước (3,2 x 2,5)cm bên trong hai bịch nylon này có chứa các hạt tinh thể màu trắng (Lý A khai là chất ma túy đá).

02. 01(một) điện thoại di động, nhãn hiệu Masstel, moded: Masstel BG 30, số imel: 351670090015921 có gắn sim mạng Viettel, số seri sim: 8984048000053292772 (đã qua sử dụng). Vật chứng mục 1 hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng - Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Kiên Giang.

Vật chứng mục 2 đã trả lại cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKSHT ngày 24/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; Truy tố bị cáo Trần Văn Lý A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang tiếp tục giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn Lý A mức án từ 01(một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Tịch thu tiêu hủy 02 (một) bịch nylon có rãnh gài, kích thước (3,2 x 2,5)cm bên trong hai bịch nylon này có chứa các hạt tinh thể màu trắng; là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,1822 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong.

- Ghi nhận Biên bản giao nhận đề ngày 08/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra-Công an thành phố Hà Tiên. Về việc giao trả 01(một) điện thoại di động, nhãn hiệu Masstel, moded: Masstel BG 30, số imel: 351670090015921 có gắn sim mạng Viettel, số seri sim: 8984048000053292772 (đã qua sử dụng) cho bị cáo Trần Văn Lý A.

Bị cáo Trần Văn Lý A: không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo Trần Văn Lý A có lời nói sau cùng: xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ vì bị cáo đã biết tội lỗi và cam kết không còn phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra - Công an thành phố Hà Tiên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Trần Văn Lý A hoàn toàn nhận thức được hành vi nắm giữ ma túy trên tay của mình nhằm mục đích đưa về nhà cất giấu sử dụng là vi phạm pháp luật; phù hợp với kết luận giám định chất ma túy, tên loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,2611 gam; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản hỏi cung; biên bản ghi lời khai và bản tự khai tại Cơ quan Điều tra (Bút lục số 03, 04, 22, 50, 51, 52, 53, 54 và 56).

Theo Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

… Như vậy, bị cáo Trần Văn Lý A có hành vi cố ý dùng tay nắm giữ ma túy, tên loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,2611 gam nhằm mục đích đưa về nhà cất giấu sử dụng là đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Văn Lý A hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình; phù hợp với vật chứng và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Theo Kiểm sát viên luận tội và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 để kết tội và xử lý các vấn đề có liên quan đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng chính sách pháp luật.

[4] Xét về nhân thân; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo Trần Văn Lý A không có nhân thân tốt, do có hành vi Cố ý gây thương tích cho người khác; bị Tòa án xử phạt 02 năm 06 tháng tù. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án này bị cáo thành khẩn khai báo; không có tiền án, tiền sự nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; gây mất an ninh trật tự tại địa phương; làm ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân và kinh tế gia đình. Bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ do thành khẩn khai báo theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do vậy, qua thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử xét thấy chỉ cần xử phạt tù đối với bị cáo Trần Văn Lý A cao hơn mức thấp nhất mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ răn đe giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội; khi mãn hạn tù trở về không còn phạm tội.

[5] Xét về hình phạt bổ sung:

Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với Nguyễn Thị Sơn T, là người bán ma túy cho bị cáo; đề nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an thành phố P tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng trong vụ án:

- Vật chứng là 01 (một) bịch nylon có rãnh gài, kích thước (6 x 4)cm, bên trong chứa 02 bịch nylon có rãnh gài, kích thước (3,2 x 2,5)cm bên trong hai bịch nylon này có chứa các hạt tinh thể màu trắng, tên loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 1,2611 gam; mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 1,1822 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong. Đây là những vật cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy.

- Ghi nhận Biên bản giao nhận đề ngày 08/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra-Công an thành phố P. Về việc giao trả 01(một) điện thoại di động, nhãn hiệu Masstel, moded: Masstel BG 30, số imel: 351670090015921 có gắn sim mạng Viettel, số seri sim: 8984048000053292772 (đã qua sử dụng) cho bị cáo Trần Văn Lý A.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Lý A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Trần Văn Lý A 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày vào chấp hành hình phạt tù. Được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/7/2019 đến ngày 02/8/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm:

+ 01 (một) bịch nylon có rãnh gài, kích thước (6 x 4)cm, bên trong chứa 02 bịch nylon có rãnh gài, kích thước (3,2 x 2,5)cm bên trong hai bịch nylon này có chứa các hạt tinh thể màu trắng là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 1,2611 gam; mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 1,1822 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số 475/2019, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng N, người chứng kiến niêm phong Nguyễn Ngọc Q và hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang.

Vật chứng nên trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng - Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Kiên Giang.

+ Ghi nhận Biên bản giao nhận đề ngày 08/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra-Công an thành phố Hà Tiên. Về việc giao trả 01(một) điện thoại di động, nhãn hiệu Masstel, moded: Masstel BG 30, số imel: 351670090015921 có gắn sim mạng Viettel, số seri sim: 8984048000053292772 (đã qua sử dụng) cho bị cáo Trần Văn Lý A.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về