Bản án 34/2019/HS-ST ngày 20/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 20/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 02 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Dương Văn M, sinh ngày 11/01/1999, tại tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn 9, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn T và bà Trần Thị S; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 10/8/2018.

2. Lê N, sinh ngày 26/3/1999, tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Tổ 14, Khu 6, Phường 2, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở: Ký túc xá Cơ sở 2, Đại học T, khu phố T, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L và bà Trịnh Thị L; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 10/8/2018.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Ông Võ Tấn C, sinh năm 1999; nơi cư trú: Ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Long An. (có mặt)

- Ông Lê Trần Thái B, sinh năm 1998; nơi cư trú: Ấp B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Tháp. (vắng mặt)

- Ông Đoàn Nguyễn Lam T, sinh năm 1999; nơi cư trú: Khu phố 4, Phường 1, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Võ Công N, sinh năm 1986; nơi cư trú: Ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Long An. (vắng mặt)

- Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1971; nơi cư trú: 35/20 khu phố N, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. (vắng mặt – có đơn xin vắng mặt)

- Ông Đặng Quang T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Số 10 đường Võ Thị Sáu, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. (có mặt)

- Ông Bùi Tất T, sinh năm 1989; nơi cư trú: Xóm N, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. (vắng mặt)

Người làm chứng:

- Ông Lê Văn T, sinh năm 1964, nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước. (vắng mặt)

- Ông Dương Văn P, sinh năm 1966; nơi cư trú: 221/3 khu phố T, phường A, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Văn M và Lê N là bạn bè quen biết. N là sinh viên trường Đại học T, địa chỉ tại khu phố T, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vào khoảng 19 giờ ngày 08/8/2018, M và N cùng bàn bạc với nhau trộm cắp xe mô tô của sinh viên trường Đại học T. Nguyễn có nhiệm vụ quan sát tài sản trong nhà xe sinh viên và thông báo cho M thời gian thích hợp, để M thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. M có nhiệm vụ là đột nhập vào trường, tiếp cận xe mô tô, đấu dây điện để kích hoạt và chạy xe ra khỏi trường.

Thực hiện ý định trên, M và N đi đến tiệm Internet “Thanh Tân” gần trường Đại học T ngồi chơi game. Đến khoảng 02 giờ ngày 09/8/2018, M đi bộ đến trường rồi leo tường rào vào trường đi đến xe mô tô biển số 62L1-390.97, nhãn hiệu Honda Winner của Võ Tấn C, rồi dùng cây lục giác hình L bằng kim loại (do M mang theo sẵn) tháo ốp nhựa của xe và đấu dây điện nhằm mục đích kích hoạt xe và quay đầu xe hướng ra cổng. Sau đó, M leo ra ngoài, đi đến tiệm Internet “Thanh Tân” nói cho N biết đấu dây điện xong và M nằm ngủ, còn N ngồi chơi game. Đến khoảng 05 giờ 30 phút N gọi M dậy kêu “vào lấy xe đi”. M đi vào trường từ cổng chính, rồi đến ghế đá ngồi chờ bảo vệ của trường Đại học T không để ý M sẽ lấy chiếc xe trên. Ngay lúc này bảo vệ nghi ngờ bắt giữ M và trình báo công an phường An Thạnh đến làm việc. M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cơ quan Công an đã mời Lê N làm việc, N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngoài ra M và Ng khai nhận trước đó cùng bạn bạc với nhau đã thực hiện 02 lần trộm cắp xe tại trường Đại học Thủy L, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào ngày 23/5/2018, M và N bàn bạc với nhau như phương thức thủ đoạn trên, lấy trộm chiếc xe biển số 63B6 – 261.01, nhãn hiệu Yamaha Exciter của Đoàn Nguyễn Lam T là sinh viên trường Đại học Thủy Lợi. Sau khi lấy được chiếc xe mô tô 63B6 – 261.01, Minh điều khiển xe chạy về phòng trọ của mình tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương rồi thông báo cho N biết, cả 02 bàn bạc vào mạng xã hội Facebook đặt làm giấy tờ giả (giấy chứng minh nhân dân và giấy đăng ký xe) và biển số giả để mang đi cầm. Khi có được giấy tờ giả và biển số giả Minh thay đổi biển số giả “49H1 – 363.99” gắn vào xe trên rồi mang đến tiệm cầm đồ “Thanh Nga” địa chỉ khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương do ông Nguyễn Văn Q làm chủ được số tiền 23.000.000 đồng. M chia cho N 5.000.000 đồng, cả hai đã tiêu xài hết.

Do Dương Văn M có quen biết với Bùi Tất T, là bạn làm chung công ty nên M nói cho T biết có cầm 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter nhưng không có tiền chuộc lại. M đưa cho T giấy cầm đồ, rồi T đến tiệm cầm đồ “Thanh Nga” chuộc lại xe với số tiền 23.700.000 đồng T mang xe sử dụng đến ngày 09/8/2018 thì bị Công an thu giữ. T không biết M trộm cắp chiếc xe trên.

Lần thứ hai: Vào ngày 31/5/2018 M và và N bàn bạc với nhau như cách thức trên, thực hiện chiếm đoạt chiếc xe biển số 66K1 – 259.77, nhãn hiệu HondaWinner của Lê Trần Thái B là sinh viên trường Đại học Thủy Lợi.

Sau khi lấy được chiếc xe mô tô 66K1 – 259.77, M và N bàn bạc làm giấy tờ giả (giấy chứng minh nhân dân và giấy đăng ký xe), biển số giả để mang đi cầm. Khi có được giấy tờ giả và biển số giả M thay đổi biển số giả “49H1 – 023.51” gắn vào xe trên rồi mang đến tiệm cầm đồ “Thanh Nga” địa chỉ khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cầm được số tiền 12.000.000 đồng. M đã tiêu xài còn lại số tiền 2.320.000 đồng. M không có chia cho N.

Tang vật thu giữ gồm: 01 chiếc mô tô biển số 62L1 – 390.97, nhãn hiệu Honda Winner; 01 chiếc xe mô tô biển số 63B6 – 261.01, nhãn hiệu Yamaha Exciter; 01 chiếc xe biển số 66K1 – 259.77, nhãn hiệu HondaWinner; 01 cây lục giác hình L bằng kim loại; 01 điện thoại di động Nokia 1080; 01 điện thoại đi động Nokia 105 và số tiền 2.320.000 đồng.

Tại biên bản định giá tài sản và bản kết luận định giá tài sản ngày 17/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Thuận An xác định:

Chiếc mô tô biển số 62L1 – 390.97, nhãn hiệu Honda Winner của Võ Tấn C trị giá 28.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô biển số 63B6 – 261.01, nhãn hiệu Yamaha Exciter của Đoàn Nguyễn Lam T trị giá 30.000.000 đồng.

Chiếc xe biển số 66K1 – 259.77, nhãn hiệu HondaWinner của Lê Trần Thái B trị giá 30.000.000 đồng.

Tổng giá trị 03 chiếc xe là 88.000.000 đồng.

Cáo trạng số 50/CT-VKS-TA ngày 28/01/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Dương Văn M, Lê N về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, trong đó bị cáo M là người rủ rê và hưởng phần lớn tài sản chiếm đoạt; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi trả cho chủ sở hữu; người thân bị cáo đã bồi thường thiệt hại; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo;

gia đình các bị cáo có công với Nhà nước nên đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng các tình giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Dương Văn M mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Lê N mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 cây lục giác hình L bằng kim loại là công cụ bị can Minh sử dụng thực hiện tội phạm; đề nghị tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 2.320.000 đồng do phạm tội mà có, 01 điện thoại di động Nokia 1080, 01 điện thoại đi động Nokia 105 là phương tiện các bị cáo sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.

Bị hại Võ Tấn C trình bày: Ngày 08/8/2018, ông C để xe mô tô biển số 62L1 – 390.97, nhãn hiệu Honda Winner trong nhà xe ký túc xá, đến sáng ngày 09/8/2018 thì bảo vệ báo có kẻ gian lấy trộm xe, sau khi ra kiểm tra thì thấy xe đã bị dời khỏi vị trí, ổ kháo xe đã bị cắt và bảo vệ đã bắt kẻ gian. Ông C đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Bị hại Đoàn Nguyễn Lam T trình bày: Ngày 22/5/2018, ông T để xe mô tô biển số 63B6 – 261.01, nhãn hiệu Yamaha Exciter trong nhà xe ký túc xá, không lấy vé gửi xe, đến sáng ngày 23/5/2018 thì bảo vệ báo có kẻ gian lấy trộm xe. Sau khi bắt được các bị cáo thì ông Trường đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Quang T trình bày: Ông T là anh rể của bị cáo N. Sau khi sự việc xảy ra, ông T đã bồi thường cho ông Nguyễn Văn Q số tiền 13.000.000 đồng và bồi thường cho ông Bùi Tất T số tiền 23.700.000 đồng, ông T không yêu cầu các bị cáo phải hoàn trả lại số tiền này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Dương Văn M, Lê N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo thống nhất với nhau, phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:

Do M và N đã bàn bạc trước nên vào khoảng 02 giờ ngày 09/8/2018, tại trường Đại học Thủy Lợi, địa chỉ tại khu phố Thạnh Lợi, phường An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo M lén lút leo tường rào vào trường đi đến xe mô tô biển số 62L1-390.97 của Võ Tấn C, trị giá 28.000.000 đồng, rồi dùng cây lục giác hình L bằng kim loại tháo ốp nhựa của xe và đấu dây điện nhằm mục đích kích hoạt xe và quay đầu xe hướng ra cổng rồi đi ra ngoài chờ cơ hội để đưa xe ra ngoài. Đến khoảng 05 giờ 30 phút thì N gọi M vào lấy xe, khi M đi vào trường để lấy xe thì bị bảo vệ nhà trường bắt giữ M và trình báo Công an phường An Thạnh.

Cũng phương thức và thủ đoạn tương tự, vào ngày 23/5/2018, tại trường Đại học Thủy Lợi, các bị cáo M và N lén lút chiếm đoạt chiếc xe biển số 63B6-261.01, nhãn hiệu Yamaha Exciter trị giá 30.000.000 đồng của Đoàn Nguyễn Lam T là sinh viên nhà trường; ngày 31/5/2018, các bị cáo M và N lén lút chiếm đoạt chiếc xe biển số 66K1-259.77, nhãn hiệu HondaWinner trị giá 30.000.000 đồng của Lê Trần Thái B là sinh viên trường. Hành vi các bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố các bị cáo về Tội trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật, mức đề nghị hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với hành vi các bị cáo đã thực hiện.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi và muốn có tiền tiêu xài nên đã cố ý phạm tội. Do đó khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo.

Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, trong đó bị cáo M là người rủ rê, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội và hưởng phần lớn giá trị tài sản chiếm đoạt được, bị cáo N là đồng phạm giúp sức tích cực nên tính chất nguy hiểm cho xã hội của bị cáo M cao hơn bị cáo N.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại (đối với hành vi xảy ra ngày 09/8/2018); tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi giao trả cho chủ sở hữu; bị cáo M có cha là thương binh và được tặng tưởng Huy chương; bị cáo N có ông bà ngoại được tặng Huân chương kháng chiến; các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên các bị cáo được hưởng tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản chiếm đoạt là xe mô tô biển số 62L1-390.97, nhãn hiệu Honda Winner trị giá 28.000.000 đồng của Võ Tấn C; xe mô tô biển số 63B6-261.01, nhãn hiệu Yamaha Exciter trị giá 30.000.000 đồng của Đoàn Nguyễn Lam T và xe mô tô biển số 66K1-259.77, nhãn hiệu HondaWinner trị giá 30.000.000 đồng của Lê Trần Thái B đã được thu hồi trả cho chủ sở hữu, các bị hại không cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với số tiền ông Đặng Quang T đã bồi thường cho ông Nguyễn Văn Q là 13.000.000 đồng và bồi thường cho ông Bùi Tất T là 23.700.000 đồng, ông T không yêu cầu các bị cáo phải hoàn trả lại nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 cây lục giác hình L bằng kim loại là công cụ bị cáo M sử dụng thực hiện tội phạm nên tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền số tiền 2.320.000 đồng thu giữ của bị cáo M là do phạm tội mà có nên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia 1080, 01 điện thoại đi động Nokia 105 thu giữ trong vụ án là phương tiện các bị cáo sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi tội phạm nên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

Đối với hành vi của các bị cáo M và N sử dụng giấy tờ giả mang đến tiệm cầm đồ “Thanh Nga” địa chỉ khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cầm cố xe mô tô biển số 63B6-261.01 nhãn hiệu Yamaha Exciter và xe mô tô biển số 66K1-259.77, nhãn hiệu HondaWinner. Xét thấy hành vi của bị cáo M và N có dấu hiệu phạm tội Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định Điều 341 và Điều 174 Bộ luật Hình sự thực hiện trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu có liên quan đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An để giải quyết theo thẩm quyền là đúng quy định của pháp luật.

Đối với ông Nguyễn Văn Q là người cầm xe mô tô biển số 63B6-261.01 nhãn hiệu Yamaha Exciter và xe mô tô biển số 66K1-259.77, nhãn hiệu HondaWinner nhưng không biết đây là tài sản do người khác phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không xem xét xử lý là đúng quy định.

Đối ông Bùi Tấn T là người đi chuộc lại chiếc xe mô tô biển số 63B6-261.01, nhãn hiệu Yamaha Exciter để đem về sử dụng. Ông T không biết chiếc xe này do M trộm cắp rồi đem cầm cố nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không xem xét xử lý là có căn cứ.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Điểm c khoản 2 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1.Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố các bị cáo Dương Văn Minh, Lê Nguyễn phạm Tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Dương Văn M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/8/2018.

Xử phạt bị cáo Lê N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/8/2018.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 1080 (model TA- 1010, IMEI 357341089122318), 01 điện thoại đi động Nokia 105 (model RM1133, IMEI 355103072401642) và số tiền 2.320.000 đồng.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cây lục giác hình L bằng kim loại. (theo biên bản giao nhận vật chứng 24/01/2019 và ủy nhiệm chi ngày 24/01/2019)

3. Về án phí: Các bị cáo Dương Văn M, Lê N mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt nên có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 20/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về