Bản án 34/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường nhà văn hóa khu dân cư số 6, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T (tên gọi khác là Nguyễn Văn T1), sinh năm 1994; nơi ĐKHKTT: thôn M, xã M, huyện T, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T2 (đã chết) và bà Nguyễn Thị V; tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 21/3/2016 Nguyễn Văn T có hành vi “Cố ý gây thương tích”, bị khởi tố bị can nhưng được công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án số: 02/QĐ ngày 22 tháng 10 năm 2016 (do người bị hại rút yêu cầu khởi tố đối với Nguyễn Văn T) và quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quyết định số 192/QĐ – XPHC ngày 22/10/2016 đối với Nguyễn Văn T với hình thức phạt tiền (5.000.000 đồng). Nguyễn Văn T chấp hành xong theo biên lai thu tiền số BLT 0191787 ngày 21/5/2018.

Nhân thân: Ngày 26/6/2017 Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hải Dương ra quyết định đình chỉ số 01/2017/HSST-QĐ ngày 01/12/2017 đối với Nguyễn Văn T do người bị hại rút yêu cầu khởi tố (Cơ quan công an không ra quyết định xử phạt hành chính do không nhận được hồ sơ vụ việc).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/01/2019. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi – Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

- Những người chứng kiến:

+ Anh Bùi Văn Th, sinh năm 1972

Địa chỉ: Khu dân cư N 1, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt;

 + Anh Nguyễn Trung Th, sinh năm 1993

Địa chỉ: Số 12, ngõ 8, đường N, khu dân cư N 1, phường S, thành phố Ch, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt;

+ Anh Nguyễn Đình D, sinh năm 1994

Địa chỉ: Số 12, ngõ 8, đường N, khu dân cư N 1, phường S, thành phố C , tỉnh Hải Dương. Vắng mặt;

+ Anh Đỗ Ngọc Q, sinh năm 1997

chỉ: Khu dân cư B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt; 

 + Anh Phạm Hữu T, sinh năm 1998

Địa chỉ: Khu dân cư T, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

+ Chị Trần Huyền L, sinh năm 1997

Địa chỉ: Khu dân cư H, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

+ Chị Hoàng Thu Th, sinh năm 2000

Địa chỉ: Khu dân cư T, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

+ Chị Vũ Thị Hải Y, sinh ngày 22/10/2001

Địa chỉ: Khu dân cư số 6, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T là người nghiện ma túy. Sáng ngày 07/01/2019, T (tên gọi khác là Nguyễn Văn T1) đi xe buýt từ nhà đến thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương gặp một người đàn ông tự xưng là L (không rõ nhân thân, địa chỉ) để mua 01 túi ma túy với giá 1.000.000 đồng và cất giấu trong người rồi đón xe về phòng trọ của bạn là anh Nguyễn Đình D ở số 12, ngõ 8, đường N, khu dân cư N 1, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Taị phòng trọ của anh D, khi anh D không có ở nhà, T lấy một ít ma túy ra sử dụng. Số ma túy còn lại T gói bằng giấy màu trắng và đựng trong túi nilon màu trắng, kích thước 5x5cm, bịt kín và cho vào hộp giấy màu trắng kích thước (5x6x14)cm, được quấn bằng băng dính màu vàng xung quanh, chiếm 1/3 mặt ngoài của hộp mà T nhặt được gần phòng trọ, rồi cất giấu số ma túy đó ở kệ ti vi để sử dụng dần cho bản thân. Đến 09 giờ 45 phút, ngày 15/01/2019, công an phường S tiến hành kiểm tra và thu được tại vị trí kệ ti vi trong phòng trọ của anh Nguyễn Đình D 01 hộp giấy, bên trong có chứa ma túy theo mô tả như trên.

Tại bản kết luận giám định số 92/KLGĐ-PC09 ngày 18/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Văn T gửi đến giám định có khối lượng là 1,718 gam là ma túy, loại methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định là 1,566 gam methamphetamine).

Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS-CL ngày 18/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác: Nguyễn Văn Tư) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác: Nguyễn Văn T1) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo từ 27 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 18/01/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu cho tiêu hủy: 1,566 gam ma túy, loại methamphetamine được gói bằng giấy màu trắng, đựng trong túi nilon màu trắng là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 hộp giấy màu trắng kích thước (5x6x17)cm màu trắng, xung quanh được quấn băng dính màu vàng, chiếm 1/3 mặt ngoài của hộp.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản vụ việc, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai của những người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 09 giờ 45 phút, ngày 15/01/2019, tại phòng trọ của anh Nguyễn Đình D ở số 12, ngõ 8, đường N, khu dân cư N 1, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn T có hành vi cất giấu trái phép 1,718 gam ma túy loại methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân bị lực lượng Công an phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương kiểm tra phát hiện và thu giữ vật chứng. Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo T là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo trực tiếp mua ma túy về sử dụng không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn đe dọa nghiêm trọng đến an toàn trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của giống nòi cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý trực tiếp mua ma túy về cất giữ bất hợp pháp để sử dụng thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi của bị cáo đã góp phần làm cho tội phạm gia tăng, tiếp tay cho kẻ mua bán ma túy bất hợp pháp và làm mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần áp dụng Điều 38 của BLHS cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo mục đích giáo dục, trừng trị bị cáo, đồng thời răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, ăn năn hối lỗi đối với hành vi của mình. Do vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung : Xét bị cáo là người nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không bán lại nhằm mục đích kiếm lời, không có thu nhập nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Chí Linh đã thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T: 1,718 gam ma túy, loại methamphetamine. Sau khi giám định hoàn lại mẫu vật là 1,566 gam methamphetamine được gói bằng giấy màu trắng và bọc trong túi nilon màu trắng (là vỏ bao gói mẫu) đựng trong phong bì niêm phong số 92/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương; 01 hộp giấy màu trắng kích thước (5x6x14)cm, được quấn bằng băng dính màu vàng xung quanh, chiếm 1/3 mặt ngoài của hộp. Đây là vật Nhà nước cầm lưu hành và không có giá trị sử dụng, cần tịch thu cho tiêu hủy.

[7] Trong vụ án này T khai mua ma túy của người đàn ông không quen biết tên là L ở thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương (không rõ nhân thân, lý lịch, địa chỉ), qua điều tra chưa xác định được người đàn ông này là ai, ở đâu nên cơ quan điều tra tách ra để xác minh, làm rõ và xử lý sau. Anh Nguyễn Đình D không biết bị cáo T cất giấu ma túy tại phòng trọ của mình nên anh D không liên quan đến việc bị cáo tàng trữ ma túy, do vậy anh D không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác là Nguyễn Văn T1) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác là Nguyễn Văn T1) 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 18/01/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 1,566 gam mẫu chất tinh thể màu trắng là methamphetamine được gói bằng giấy trắng, ngoài là túi nilon màu trắng là mẫu vật hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 92/KLGĐ- PC09 ngày 18/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương (Toàn bộ vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2019 giữa cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Chí Linh).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác là Nguyễn Văn T1) phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về