Bản án 34/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 12/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Xuân Th, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn LĐ, xã ChL, huyện ChL, tỉnh LS; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Sơn H và bà Hoàng Thị B; vợ: Linh Thị Th; con: có 03 con; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/3/2019 đến ngày 20/3/2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo tại ngoại có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Linh Thị Th, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn LĐ, xã ChL, huyện ChL, tỉnh LS (vắng mặt).

Người làm chứng: Anh Tạ Văn Th, sinh năm 1982; trú tại: Thôn CY 1, xã HCh, huyện TĐ, tỉnh VP (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 50 phút, ngày 12/03/2019 tại khu vực Km10, đường TL310 thuộc địa phận huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đảo phát hiện bắt quả tang Vũ Xuân Th đang có hành vi tàng trữ trái phép pháo trên thùng xe ô tô tải BKS 12C - 039.03. Thu giữ trong thùng xe 16 hộp hình khối vuông kích thước (15x15x15) cm, bên ngoài mỗi hộp bọc giấy màu đỏ, vàng, in chữ nước ngoài (dạng chữ tượng hình), bên trong mỗi hộp có 36 vật trụ, hình tròn, bằng giấy màu xám được gắn kết với nhau bằng 01 dây dẫn được niêm phong ký hiệu M1, ngoài ra còn thu giữ của Vũ Xuân Th 01 xe ô tô tải BKS 12C - 039.03 loại xe TMT màu xanh đã cũ, 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy đăng kiểm xe, 01 bảo hiểm dân sự xe, 02 giấy phép lái xe, 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Xuân Th, 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng đã cũ.

Tại bản kết luận giám định số 425 ngày 16/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “16 khối hộp của mẫu ký hiệu M1 gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khí đốt có gây tiếng nổ). Có tổng khối lượng là 21,74kg”.

Số mẫu còn lại của mẫu gửi giám định là 19,34kg đã được đóng gói, niêm phong và bàn giao lại cho cơ quan trưng cầu tại thời điểm mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 12/3/2019.

Về nguồn gốc pháo: Th khai mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi vào ngày 09/3/2019, Th không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể với giá 5.120.000đ tại thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, sau đó Th mang về cất giấu ở vườn của gia đình. Đến ngày 10/3/2019 Th đi thu mua phân gà tại xã Tam Quan, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, Thành có gặp một thanh niên tên là H (Th quen biết H từ trước nhưng không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), thời điểm đó vừa qua tết nên H biết bị cáo quê Lạng Sơn nên H hỏi xin pháo để đốt. Do có sẵn pháo ở nhà nên Th đồng ý. Đến sáng ngày 12/3/2019 Th điều khiển xe ô tô tải BKS 12C-039.03 đến xã Tam Quan, huyện Tam Đảo để thu mua phân gà, trước khi đi Th có cất số pháo trên thùng xe ô tô để đem cho H. Khi đi đến địa phận thôn Hợp Thành, xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo thì bị bắt quả tang.

Quá trình điều tra, xác minh tại trại gà của gia đình ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1956 ở thôn QNg, xã TQ, huyện TĐ không có đối tượng nào tên là H buôn bán phân gà như Thành đã khai.

Đối với người tên H là người hỏi xin pháo của Th: Quá trình điều tra, theo lời khai và chỉ dẫn của Th, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, rà soát đối với nam thanh niên tên H tại xã TQ cũng như trại gà của gia đình ông B ở thôn QNg, xã TQ. Kết quả xác định không có đối tượng tên H đi buôn bán phân gà như Th khai nhận. Do vậy không có cơ sở xác minh nên không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi ở thị trấn ĐĐ, huyện CL, tỉnh LS là người bán pháo nổ cho Th. Do Th không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, không đề cập xử lý.

Tại Bản Cáo trạng số: 39/CT-VKSTĐ ngày 14/6/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Vũ Xuân Th về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Xuân Th phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự; phạt: Vũ Xuân Th từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo Vũ Xuân Th hoàn toàn đồng ý với truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo. Về hình phạt bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt chị L là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo, do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa Vũ Xuân Th thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thể hiện như sau: Khoảng 08giờ 50 phút ngày 12/3/2019, tại KM10, đường 310 thuộc Thôn Hợp Thành, xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo. Công an huyện Tam Đảo kiểm tra phát hiện bắt quả tang Vũ Xuân Th đang tàng trữ 16 hộp hình khối vuông kích thước (15x15x15) cm, bên ngoài mỗi hộp bọc giấy màu đỏ, vàng, in chữ nước ngoài (dạng chữ tượng hình), bên trong mỗi hộp có 36 vật trụ, hình tròn, bằng giấy màu xám được gắn kết với nhau bằng 01 dây dẫn, có tổng trọng lượng 21,74kg kết luận là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khí đốt gây tiếng nổ) thì bị bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

[4] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc; Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang ngày 12/3/2019 cùng vật chứng thu giữ được có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội „„Tàng trữ hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Cụ thể điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây…thì bị phạt tiền từ 50.000.000đồng đến 300.000.000đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

C, “Pháo từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam”

[5] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi tàng trữ hàng cấm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính coi thường pháp luật, đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Việc sử dụng, tàng trữ, đốt pháo nổ tiềm ẩn cao nguy cơ gây thương vong cho người sử dụng và người liên quan, gây ô nhiễm môi trường, lãng phí tiền của, tình trạng tàng trữ vận chuyển pháo làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ pháo nổ là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[6] Xét về nhân thân bị cáo nhận thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly khỏi đời sống xã hội cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành người có ích và đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông nội, bà nội bị cáo là người có công với cách mạnh nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo hiện nay không có việc làm, thu nhập không ổn đinh, ở nông thôn điều kiện gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

Cần tịch thu tiêu hủy 14 khối hộp (hộp pháo) có trọng lượng 19,34 kg được niêm phong trong 01 bìa cát tông có chữ ký của những người có liên quan và đóng dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đảo trả lại cho Vũ Xuân Th 02 giấy phép lái xe; 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Xuân Th, 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng, 01 xe ô tô BKS 12C – 039.03; 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy đăng kiểm xe, 01 bảo hiểm dân sự của xe ô tô BKS 12C- 039.03 mang tên Vũ Xuân Th.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo Vũ Xuân Th phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Xuân Th phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Xuân Th 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Vũ Xuân Th cho Ủy ban nhân dân xã ChL, huyện CL, tỉnh LS giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Trường hợp bị cáo Vũ Xuân Th thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 14 khối hộp (hộp pháo) có trọng lượng 19,34 kg được niêm phong trong 01 bìa cát tông có chữ ký của những người có liên quan và đóng dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

(Vật chứng trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/6/2019).

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đảo trả lại cho Vũ Xuân Th: 02 giấy phép lái xe; 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Xuân Th, 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng; 01 xe ô tô BKS 12C – 039.03; 01 giấy đăng ký xe, 01 giấy đăng kiểm xe, 01 bảo hiểm dân sự của xe ô tô BKS 12C- 039.03 mang tên Vũ Xuân Th.

4. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc Vũ Xuân Th phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về