Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 09/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 34/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 09 tháng 09 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 149/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Xóm Bàng, thôn Hạ Lôi, xã L, huyện M, Thành Phố Hà Nội, “có mặt”.

 - Bị đơn: Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn Bến Cả, xã Y, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05 tháng 6 năm 2019 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Akết hôn với nhau ngày 15/02/2014, đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Trước khi kết hôn có được tự do tìm hiểu và việc đi đến hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn chị về chung sống cùng gia đình anh A ở thôn Bến Cả, xã Y, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình chung sống chị và anh A thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh A thường chơi bời, tụ tập không quan tâm đến gia đình vợ con dẫn đến vợ chồng ngày càng mâu thuẫn, chị và anh A đã ly thân nhâu từ giữa năm 2015 đến nay, không ai quan tâm thăm hỏi gì nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh A.

Về con chung: Chị và anh A có 01 con chung là cháu Nguyễn Duy K, sinh ngày 11/02/2015, hiện cháu K đang ở cùng chị. Ly hôn chị xin nuôi cháu K, không yêu cầu anh A phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án cùng bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn cung cấp; các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh A nhưng anh A đều không đến Tòa làm việc. Vì vậy, Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai và hòa giải theo quy định của pháp luật.

Xác minh tại địa phương và gia đình cho biết trong quá trình chung sống anh A và chị T có xảy ra mâu thuẫn gì hay không thì gia đình và địa phương không nắm được. Anh A và chị T có 01 con chung là Nguyễn Duy K, sinh ngày 11/02/2015. Nay chị T xin ly hôn anh A địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về kiểm sát tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng và của người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định; người tham gia tố tụng chị Thắm đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Anh A là bị đơn không chấp hành, vắng mặt khi giải quyết vụ án nên anh Tư phải tự chịu trách nhiệm.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Lê Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn A. Về con chung: Giao cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Duy K, sinh ngày 11/02/2015; anhA không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Về chia tài sản các đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn và phân chia nuôi con chung với anh Nguyễn Văn A. Bị đơn anh A hiện có hộ khẩu và cư trú tại Thôn Bến Cả, xã Y, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, theo qui định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Đối với anh A quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án chỉ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh A theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Chị T và anh A đăng ký kết hôn ngày 15/02/2014 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, trước khi cưới có được tự do tìm hiểu, hôn nhân tự nguyện, tiến bộ vì vậy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh A là tự nguyện, hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xem xét hôn nhân giữa chị T và anh A thấy rằng cuộc sống chung vợ chồng giữa chị T và anh A có rất nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân như chị T trình bày vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh A thường chơi bời, tụ tập không quan tâm đến gia đình vợ con dẫn đến vợ chồng ngày càng mâu thuẫn, chị và anh A đã ly thân nhâu từ giữa năm 2015 đến nay, không ai quan tâm thăm hỏi gì nhau. Quá trình giải quyết vụ án anh A mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng đều không có mặt để trình bày ý kiến về mâu thuẫn hay xin đoàn tụ. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh A đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị T xin ly hôn anh A là chính đáng, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình do đó cần được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị T và anh A có 01 con chung là cháu Nguyễn Duy K, sinh ngày 11/02/2015, hiện cháu K đang ở cùng chị T. Ly hôn chị T xin được nuôi cháu K, không yêu cầu anh A phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay chị T đang ở và kinh doanh bánh mì cùng bố mẹ đẻ ở xóm Bàng, thôn Hạ Lôi, xã L, Huyện M, thành phố Hà Nội. Chị T có chỗ ở và thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con, nên giao cháu K cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp; anh A không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

[4] Về tài sản chung: Chị T không đề nghị Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét. Sau khi ly hôn, nếu các đương sự có tài sản và có đề nghị thì Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo qui định của pháp luật.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Lê Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn A.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Duy K, sinh ngày 11/02/2015 cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục (Cháu K hiện đang ở với chị T); anh A không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số: AA/2017/0002232 ngày 11 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành dân sự huyện Vĩnh Tường. Chị T đã nộp đủ án phí.

Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 09/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:34/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về