TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 34/2018/HS-ST NGÀY 30/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương xét xử công khai, lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:
VŨ NGỌC L, sinh năm 1991; Hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn H, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Ngọc Đ và bà Vũ Thị Đ; Vợ là chị Đào Thị L (đã ly hôn), bị cáo có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 15-4-2011, Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 61 về hành vi đánh bạc; bị tạm giữ từ ngày 03-4-2018, chuyển tạm giam từ ngày 05-4- 2018 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.
- Người làm chứng: Anh Vũ Xuân H, sinh năm 1991. Vắng mặt.
Trú tại: Thôn T, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Ngọc L là đối tượng nghiện ma túy đá. Chiều ngày 01-4-2018 L đi xe ôm đến thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, L gặp một người nam thanh niên không quen biết, không rõ tên, tuổi, địa chỉ, L hỏi người thanh niên “Có đá không, bán cho một ít”. Nam thanh niên hiểu ý L muốn mua ma túy đá nên hỏi lại “Có, muốn mua bao nhiêu”. L trả lời “Bán cho 1.000.000 đồng”. L đưa cho người thanh niên số tiền 1.000.000 đồng, anh ta nhận tiền và đưa cho L 01 gói ni lon, bên trong có chứa ma túy đá. L cất giấu gói ma túy trong người và đi xe ôm về nhà. Đến nhà, L chia nhỏ số ma túy đá mua được thành 08 gói và sử dụng hết 01 gói, còn lại 07 gói, L gói lại bằng các mảnh giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, dán bên ngoài bằng băng dính đen, L cất giấu trong ngăn kéo tủ quần áo phòng ngủ để sử dụng dần. Trưa ngày 03-4-2018, L cầm theo 01 gói ma túy đá và đi đến nhà anh Vũ Xuân H chơi. Hồi 11 giờ 15 phút cùng ngày, khi L đi đến trước cửa nhà anh H thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp Công an xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong lòng bàn tay phải của L đang cầm 01 gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, bên ngoài dán băng dính đen, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể (niêm phong ký hiệu M). Hồi 13 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lộc đã khám xét khẩn cấp nơi ở của L tại thôn H, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương, thu giữ trong ngăn kéo tủ quần áo kê trong phòng ngủ của L 06 gói giấy nhỏ, bên ngoài bọc băng dính đen, bên trong mỗi gói giấy đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (Niêm phong ký hiệu M1). L khai nhận gói giấy thu giữ trong lòng bàn tay phải của L và 06 gói giấy thu giữ tại nơi ở của L đều là ma túy đá cất giấu để sử dụng cho bản thân.
Tại Kết luận giám định số 244/KLGĐ-PC54 ngày 05-4-2018, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận:
- Chất rắn (dạng tinh thể) mầu trắng ghi thu của Vũ Ngọc L, niêm phong trong phong bì ký hiệu M, gửi đến giám định có tổng khối lượng là 0,208g, là loại Methamphetamine.
- Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng ghi thu trong quá trình khám xét chỗ ở của Vũ Ngọc L, niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, gửi đến giám định có tổng khối lượng là 0,528g, là loại Methamphetamine.
Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT:67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19-7-2013 của Chính phủ.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Vũ Ngọc L không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, khai nhận hành vi cất giấu trái phép Methamphetamine, mục đích để sử dụng.
Tại Cáo trạng số 38/CT-VLS-GL ngày 11-5-2018, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt là VKSND) huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố Vũ Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (viết tắt là BLHS) năm 2015.
Đại diện VKSND huyện Gia Lộc giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS) năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Tuyên bố: Bị cáo Vũ Ngọc L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo L từ 17 tháng đến 19 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 03-4-2018. Hình phạt bổ sung: không áp dụng. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng số 244/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương (bên trong có số ma túy hoàn lại sau giám định). Về án phí: Buộc bị cáo L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, VKSND huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo Vũ Ngọc L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 15 phút ngày 03-4-2018, tại thôn T, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương, Vũ Ngọc L đang có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,208 gam thì bị phát hiện, bắt quả tang. Khám xét khẩn cấp nơi ở của L ở thôn H, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương phát hiện L còn cất giấu trái phép 06 gói Methamphetamine có khối lượng là 0,528 gam. Tổng khối lượng Methamphetamine L cất giấu trái phép là 0,736 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, VKSND huyện Gia Lộc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.
[4] Về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu, ngày 15-4-2011 bị Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc (đã xóa).
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015.
[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 135, Điều 136 BLTTHS năm 2015, Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14.
[8] Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Vũ Ngọc L khai mua của một người nam thanh niên không quen biết, không rõ tên, tuổi, địa chỉ ở thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương, quá trình điều tra không xác định được là ai nên không có căn cứ xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Ngọc L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt bị cáo Vũ Ngọc L 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 03-4-2018.
2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng số244/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương (bên trong có số ma túy hoàn lại sau giám định).
(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Gia Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc ngày 22-5-2018).
3. Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Ngọc L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 34/2018/HS-ST ngày 30/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 34/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về