Bản án 34/2018/HS-ST ngày 06/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH,TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2018/HS-ST NGÀY 06/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2018, tại nhà văn hóa thôn An Thái, thị trấn Phú thái, huyện Kim Thành, Tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2018/TLST ngày 29/5/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử SỐ29/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Văn B, sinh năm 1997 tại K, Hải Dương.

Nơi đăng ký HKTT&chỗ ở: Đội X, Q, K, K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị L; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 29/4/2018, chuyển tạm giam từ ngày 01/5/2018 tại Trại Tạm giam Kim Chi- Công an tỉnh Hải Dương cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975; địa chỉ: số nhà XX, ngõ XX, phố Đ, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 9h50’ ngày 29/4/2018, tại khu vực đường liên thôn Q, Q thuộc đội 1, thôn Q, xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương, Công an huyện Kim Thành kết hợp với Công an xã N bắt quả tang Trần Văn B có hành vi tàng trữ trong túi quần bò bên phải B đang mặc 01 túi nilon màu trắng kích thước 1x1,5 cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, B khai là ma túy đá do B mua về để sử dụng, nên Công an đã tiến hành niêm phong theo đúng quy định và trưng cầu giám định số ma túy nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 211/KLGĐ(Đ6) ngày 30/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định  là ma túy, có khối lượng 0,1738 gam, là loại Methamphetamine. Hoàn lại 0,0919 gam tinh thể và vỏ bao bì của mẫu vật trong phong bì niêm phong số 211.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 28/5/2018, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Kim Thành truy tố Trần Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Văn B từ 13 đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 29/4/2018; về vật chứng: đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu cho tiêu hủy 0,0919 gam là mẫu vật hoàn lại sau giám định; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; về án phí: Buộc phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326 về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; lời khai người làm chứng; vật chứng đã thu giữ và một số các chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa là có đủ căn cứ kết luận: Hồi 9h 50’ ngày 29/4/2018, tại đội 1, thôn Q, xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương, Trần Văn B có hành vi tàng trữ trái phép 0,1738 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng trái phép thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tang vật.

[2] Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do nghiện ma túy đá đã cố ý tàng trữ trái phép 0,1738 gam Methamphetamine trong người với mục đích để sử dụng là đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy; xâm phạm đến trật tự trị an xã hội và đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo về tội danh điều khoản trên là đúng, người đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, đồng thời bị cáo lại là đối tượng nghiện ma túy, nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc tương ứng với mức độ phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục bị cáo về ý thức pháp luật và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản đảm bảo thi hành án, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng đã thu giữ được xử lý như sau: 01 (một) phong bì niêm phong số 211/2018/PC54 (MT) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, bên trong có 0,0919 gam Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói được hoàn lại sau giám định cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

[8] Trong vụ án này, B khai mua ma túy của anh Hoàng Văn Đ, ở Q, N, K, Hải Dương với số tiền 200.000đ nhưng không ai biết, Đ hiện đang vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra chưa làm việc được với Đ, nên chưa có căn cứ xử lý. Hội đồng xét xử đề nghị Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra Công an huyện Kim Thành trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình điều tra làm rõ hành vi bán ma túy của đối tượng Hoàng Văn Đ để xử lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Trần Văn B 13 (Mười ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 29/4/2018.

3/ Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 0,0919 gam Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói trong 01 (một) phong bì niêm phong số 211/2018/PC54 (MT) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng được hoàn lại sau giám định.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Kim Thành và Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Thành vào hồi 15h 00’ ngày 05/6/2018)

4/Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án

Bị cáo Trần Văn B phải chịu 200.000đ(Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HS-ST ngày 06/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về