Bản án 34/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H - TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 34/2018/HS-ST NGÀY 03/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03/10/2018 tại Nhà văn hóa khu phố NT, phường Q, thành phố H, tỉnh Hưng Yên mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2018/TLST-HS ngày 06/9/2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2018/QĐXXST-HS ngày 20/9/2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Ngọc H (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1982 tại thành phố H, tỉnh Hưng Yên; Nơi cư trú: Số N, đường T, phường M, thành phố H, tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Ngọc C, sinh năm 1944 (đã chết) và bà Mai Thị D, sinh năm 1946; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không;

Tiền án:

- Bản án số 07/2010/HSST ngày 08/02/2010 của Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt ngày 02/6/2012.

- Bản án số 12/2013/HSST ngày 16/5/2013 của Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 04 năm 03 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt ngày 10/01/2017.

Nhân thân:

- Ngày 25/4/2002 bị Công an huyện T, tỉnh Hưng Yên xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 03/9/2002 bị Công an thành phố H, tỉnh Hưng Yên xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp vặt.

- Ngày 24/9/2002 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng.

- Bản án số 50/2005/HSST ngày 29/7/2005 của Tòa án nhân dân thị xã H xử phạt 06 tháng từ về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án số 82/2006/HSST ngày 22/11/2006 của Tòa án nhân dân thị xã H xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/4/2018 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị H - Vắng mặt.

Địa chỉ: Số P, đường Đ, phường M, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.

* Người chứng kiến: Bà Phạm Thị Nghiên - Vắng mặt;

Địa chỉ: Số Y, đường T, phường M, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 18/4/2018 Đoàn Ngọc H bắt xe buýt đi từ thành phố H đến khu vực bến xe huyện T, tỉnh Bắc Ninh để mua ma túy về sử dụng. Tại đây H thấy một thanh niên khoảng 30 tuổi nhìn dáng vẻ giống người nghiện ma túy, H hỏi người này “anh ơi lấy hộ em năm trăm nghìn tiền đồ, em gửi anh năm mươi nghìn”. Ý của H là nhờ người này mua mua Hêrôin với số tiền 500.000 đồng và H sẽ trả công cho anh ta số tiền 50.000 đồng. Người thanh niên này đồng ý và bảo H “đưa tiền đây”. H đưa cho người thanh niên số tiền 550.000 đồng, người thanh niên này nhận tiền rồi bỏ đi khoảng 30 phút sau quay lại và đưa cho H 02 gói giấy bạc màu trắng. H mở 02 gói giấy bạc này ra xem thấy bên trong mỗi gói đều có chứa chất màu trắng dạng cục, vì là người nghiện ma túy nên H xác định đó là Hêrôin. H gói 02 gói giấy bạc lại như cũ và cất giấu vào túi áo khoác đang mặc trên người rồi bắt xe buýt đi về thành phố H. Đến khoảng 17 giờ H đi về đến khu vực trước cửa Bưu điện ở số M đường B, phường Q, thành phố H thì xuống xe. Tại đây H bị Tổ công tác - Công an thành phố H kiểm tra, H đã tự giác lấy 02 gói ma túy đang cất giấu trong túi áo khoác ra giao nộp. Tổ công tác - Công an thành phố H đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ gồm: 02 gói giấy nhỏ bọc bằng giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất màu trắng dạng cục.

Tại bản Kết luận giám định số 170/ PC54 ngày 24/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục niêm phong thu của Đoàn Ngọc H có tổng khối lượng: 6,570 gam là ma túy, là loại Hêrôin. Hoàn lại 6,377 gam Hêrôin mẫu giám định.

Quá trình điều tra Đoàn Ngọc H thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ phép chất ma túy của mình.

Tại bản cáo trạng số: 38/CT-VKS-TPHY ngày 05/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Đoàn Ngọc H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm g, o khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng; Áp điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 136 - Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Đề nghị HĐXX: Xử phạt bị cáo từ 6 năm 6 tháng đến 7 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 18/4/2018; Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định ghi PC 54, số 170 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên, bên trong có 6,377 gam ( sáu phẩy ba bảy bảy gam) Hêrôin là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ; Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Vì vậy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 17 hồi ngày 18/4/2018, lời khai của người làm chứng Bà Nguyễn Thị H và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Trên cơ sở đó có đủ căn cứ xác định: Khoảng 17 giờ ngày 18/4/2018 tại khu vực trước cửa Bưu điện Ph ở số M đường B, phường Q, thành phố H, tỉnh Hưng Yên, Đoàn Ngọc H đã có hành vi tàng trữ 6,570 gam (sáu phẩy năm bẩy không gam) ma túy loại Hêrôin nhằm mục đích sử dụng.

Do Bản án năm 2010 và bản án năm 2013 cùng của TAND thành phố H, tỉnh Hưng Yên đều chưa được xóa án tích và bản án năm 2013 của TAND thành phố H đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Tái phạm, H lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên được coi là Tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép 6,570 gam ma túy loại Hêrôin nhằm mục đích để sử dụng của H đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Do vậy việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Đoàn Ngọc H vềtội danh và áp dụng điều luật như bản Cáo trạng viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, góp phần làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng gia tăng. Bị cáo là người có nhân thân xấu: Có hai tiền án đã được xóa án tích về tội Trộm cắp tài sản, hai tiền sự về hành vi sử sụng trái phép chất ma túy và trộm cắp vặt, đã bị đưa vào cơ sơ giáo dục bắt buộc. Ngoài ra bị cáo còn có hai tiền án chưa được xóa án tích đều về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên bị cáo không chịu sửa chữa, tu dưỡng thành người công dân có ích cho xã hội mà vẫn tiếp tục sử dụng ma túy và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Điều này chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật và khó cải tạo nên cần thiết phải xử lý thật nghiêm để giáo dục bị cáo sau này không tái phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Do đã áp dùng tình tiết Tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo H đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo có bố đẻ là ông Đoàn Ngọc C được Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì bị cáo có nghề nghiệp là lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, sống phụ thuộc vào gia đình nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 6,377 gam Hêrôin được hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên sẽ tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về vấn đề khác: Đối với người thanh niên đã bán ma túy, H khai không quen, mới gặp lần đầu nên không biết tên là gì, ở đâu nên không có đủ căn cứ để xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc H 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/4/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu sau giám định ghi PC54 - Công an tỉnh Hưng Yên, số: 170, bên trong có 6,377 gam Hêrôin của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên bàn giao cho Công an thành phố H.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Đoàn Ngọc H phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hưng Yên - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về