Bản án 34/2018/HNGĐ-ST ngày 25/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 34/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Xuân N, nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt. 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện, tại Bản tự khai, nguyên đơn là chị Phạm Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Bùi Xuân N trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện A, Hải Phòng vào ngày 05 tháng 6 năm 2002. Sau khi kết hôn, chị về chung sống cùng gia đình anh N tại thôn L, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, mặt khác anh N mải chơi không quan tâm trách nhiệm đến gia đình nên thường xuyên xẩy ra va chạm cãi vã. Mâu thuẫn đã được gia đình nội ngoại hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện tại chị và anh N sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Xuân N.

Về con chung: Chị và anh Bùi Xuân N có hai con chung là Bùi Thị Th, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2002 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 13 tháng 6 năm 2014. Chị đề nghị Tòa án giao hai con chung cho chị nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là anh Bùi Xuân N: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh N để anh N đến Toà án nhân dân huyện An Dương giải quyết việc chị Phạm Thị T xin ly hôn nhưng anh N đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn đã không đến Tòa án ghi bản tự khai; không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã vi phạm các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn và về vấn đề con chung. Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn chị Phạm Thị T vắng mặt tại phiên tòa và có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Bùi Xuân N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, nên căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1, khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị T và anh Bùi Xuân N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Tuy anh Bùi Xuân N không đến Tòa án, nên không có quan điểm của anh N về việc chị Phạm Thị T xin ly hôn, nhưng căn cứ lời khai của nguyên đơn, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ cơ sở xác định: Chị Phạm Thị T và anh Bùi Xuân N kết hôn với nhau do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện A, Hải Phòng vào ngày 05 tháng 6 năm 2002. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình nội, ngoại hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện tại vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Phạm Thị T và anh Bùi Xuân N đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, việc chị Phạm Thị T xin ly hôn với anh Bùi Xuân N là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Bùi Xuân N có hai con chung là Bùi Thị Th, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2002 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 13 tháng 6 năm 2014. Xét thấy, hiện tại chị T và anh N đều là lao động tự do nên khả năng và điều kiện nuôi dưỡng con chung như nhau. Con chung Bùi Tuấn K còn nhỏ nên cần có sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn, con chung Bùi Thị Th có nguyện vọng được ở với chị H, chị H có nguyện vọng tha thiết được nuôi cả hai con. Anh N không có lời khai, không có mặt tại phiên tòa, nên không có quan điểm của anh N về con chung. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho con chung, cần giao hai con chung cho chị T nuôi dưỡng. Khi nào anh N có yêu cầu về vấn đề con chung, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, Anh N không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con, nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[4] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Bùi Xuân N không có quan điểm về vấn đề tài sản. Nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ xem xét, giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1, Điều 28; Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1 và khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 6; điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T được ly hôn anh Bùi Xuân N.

2. Về con chung: Giao các con chung Bùi Thị Th, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2002 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 13 tháng 6 năm 2014 cho chị Phạm Thị T nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi dưỡng con chung tính từ ngày 26 tháng 6 năm 2018 đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn đã nộp theo Biên lai thu tiền số 15071 ngày 10 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. Chị Phạm Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HNGĐ-ST ngày 25/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:34/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về