Bản án 34/2017/HSST ngày 20/04/2017 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 20/04/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2017, tại phòng xử án của trụ sở Tòa án nhân dân Quận XI xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/HSST ngày 16 tháng 3 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Thành K; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1987; Tại Thành phố H; Đăng ký thường trú: đường Bàu Cát, Phường 12, quận TB, Thành phố H; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Võ Thành D và bà Nguyễn Thị T; Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 07/5/2004, bị Tòa án nhân dân Thành phố H xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo về tội Cướp giật tài sản; Ngày 26/11/2013, Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh của Ủy ban nhân dân quận TB thời gian 24 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 25/7/2016, Quyết định về việc áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện ma túy, thời gian quản lý sau cai nghiện 24 tháng, kể từ ngày 09/9/2016 của Ủy ban nhân dân quận TB; Bị tạm giam từ ngày: 05/12/2016 (Có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: Bà Phạm Thị Hồng L, sinh năm: 1969; địa chỉ: đường Phan Huy Ích, Phường 15, quận TB, Thành phố H (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vương Sỷ L, địa chỉ: đường Lý Thái Tổ, Phường 10, Quận X, Thành phố H. (vắng mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Võ Thành K bị Viện kiểm sát nhân dân Quận XI truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 5 giờ 30 phút ngày 05/12/2016, Võ Thành K điều khiển chiếc xe Wave biển số 54U1-5341 chạy lòng vòng các tuyến đường tìm người có tài sản sơ hở để chiếm đoạt. Khi lưu thông đến trước số nhà 271 Lý Thường Kiệt, Phường 15, Quận XI, K thấy chị Phạm Thị Hồng L chạy xe mô tô phía trước, tay trái chị L đang cầm điện thoại di động và nghe bên tai phải. K điều khiển xe từ phía sau chạy vượt lên áp sát bên phải chị Lan rồi dùng tay trái giật chiếc điện thoại của chị Lan rồi tăng ga chạy thoát. Chị L tri hô rồi đuổi theo K, cùng lúc có các chiến sĩ thuộc cảnh sát phòng chữa cháy Quận XI trông thấy sự việc nên truy đuổi và bắt giữ được K cùng chiếc điện thoại di động của chị L và phương tiện phạm tội giao cho Công an Phường 15, Quận XI lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Theo Kết luận định giá tài sản số 19/KLĐGTS ngày 14/02/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận XI: Một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng trị giá 4.000.000 (bốn triệu) đồng.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận XI, Võ Thành K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- Một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng.

- 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, biển số 54U1-5341 không có số khung, số máy.

Về phần dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Bản cáo trạng số: 21/Ctr-VKS ngày 13 tháng 3 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân Quận XI đã truy tố bị cáo Võ Thành K về tội: “Cướp giật tài sản” theo Điểm d Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Thành K thừa nhận: Vào khoảng 5 giờ 30 phút ngày 05/12/2016, K điều khiển chiếc xe Wave biển số 54U1-5341 chạy áp sát bên phải chị Lan rồi dùng tay trái giật chiếc điện thoại của chị Lan rồi tăng ga bỏ chạy.

Trong phần luận tội, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận XI kiểm tra toàn diện các chứng cứ của vụ án, kiểm tra các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và đã kết luận có đủ căn cứ để truy tố và xét xử bị cáo về tội: “Cướp giật tài sản” theo Điểm d Khoản 2 Điều 136 của Bộ Luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 136; Điểm g, p Khoản 1 Điều 46 xử phạt bị cáo mức án từ 03 (ba) năm đển 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về phần dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Ông Vương Sỷ L đã nhận lại biển số xe – không có ý kiến gì khác.

Chiếc xe mô tô bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội thì đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo thừa nhận những hành vi sai phạm như cáo trạng truy tố, không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Bị cáo K nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi, lười lao động muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo vẫn sử dụng xe gắn máy để giật tài sản của người khác. Hành vi sai phạm của bị cáo đã xâm hại đến tài sản của người khác, xâm hại đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ; xét có đủ căn cứ để tuyên bố bị cáo phạm tội cướp giật tài sản theo Điều 136 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội.

Mặt khác, bị cáo sử dụng xe mô tô làm phương tiện phạm tội là tình tiết có thể gây nguy hiểm cho người bị hại và người đi đường, do vậy cần phải áp dụng mức án nghiêm khắc theo Điểm d Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cũng cân nhắc bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và đã ăn năn hối cải, tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã hoàn trả cho người bị hại, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Về vật chứng vụ án:

- Một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng, là tài sản của chị Phạm Thị Hồng Lan. Công an Phường 15, Quận XI lập biên bản trả lại cho chị Lan là đúng theo quy định của pháp luật.

Qua xác minh, biển số kiểm soát 54U1-5341 do anh Vương Sỹ L đứng tên. Anh cho biết biển số máy này cấp cho xe có kiểu dáng Dream Trung Quốc. Vào ngày 04/11/2016, anh L đã bị mất trộm tại Quận 10. Bị cáo K khai nhận xe này do bị cáo mua phụ tùng xe rồi thuê thợ lắp rắp, riêng biển số xe 54U1-5341 do một người quen tên Tài (chưa rõ lai lịch) bán cho K dùng. Cơ quan điều tra đã trả lại biển số xe 54U1-5341 cho anh Vương Sĩ L.

- 01 xe mô tô kiểu dáng Wave, không có số khung, số máy là phương tiện phạm tội thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Thành K phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 136; Điểm g, p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Võ Thành K 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 05/12/2016.

Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô máu hiệu Wave @ màu xanh, số khung: không, số máy: không. Xe không bửng chắn gió. Tình trạng máy bên trong không kiểm tra. (Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 21/LNK ngày 07/12/2016) Căn cứ Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Danh mục về án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016);

Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Áp dụng Điều 231, 234 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 20/04/2017 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về