TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 339/2020/HS-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 27 và 28 tháng 8 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 312/2020/HSST ngày 23 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 346/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:
Lê Thành N (tên gọi khác N T), sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn T, sinh năm 1943 và bà Ngô Thị Á, sinh năm 1945; có 05 em ruột, lớn nhất sinh năm không rõ, nhỏ nhất sinh năm không rõ; có vợ Cáp Thị L, sinh năm 1977 (không đăng ký kết hôn); có 01 con, sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
+ Ngày 28/10/1993 bị Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ sử dụng hoặc chiếm đoạt chất nổ trái phép (Bản án số 26/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/1994.
+ Ngày 16/6/2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 09 năm tù về tội Hiếp dâm, Bắt giữ người trái pháp luật (Bản án số 102/HSST). Ngày 29/9/2003 Tòa phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh xử không chấp nhận kháng cáo (Bản án 1859/HSPT). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/01/2009.
+ Ngày 16/11/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng 20 ngày tù, phạt bổ sung 8.000.000 đồng (Bản án số 391/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/11/2015.
+ Ngày 27/3/1999 bị Công an huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương bắt về tội Trộm cắp tài sản của công dân.
Bị bắt tạm giam từ ngày 24/01/2020; có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Phạm Thành Đ, sinh năm 1983; trú tại: QL1K khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Thanh B, sinh năm 1981; trú tại: khu phố 4, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
- Người chứng kiến:
1. Nguyễn Thành P; vắng mặt.
2. Nguyễn Đình H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 24/6/2019, ông Phạm Thành Đ cùng ông Nguyễn Đình H, ông Nguyễn Thành P uống bia tại quán dê T trên đường Võ Thị S, khu phố T, phường Đ, thành phố D. Ông Đ gọi điện cho Lê Thành N để rủ N ra quán uống bia cùng và nói chuyện, nhưng do có sự bực tức với ông Đ nên N mượn của V (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) 01 xe mô tô tay ga màu trắng, Lê Thành N mang theo 01 tuýp sắt dài khoảng 1,2m hình trụ tròn đến quán dê T để gặp ông Đ. Thấy N đến thì ông Đ đứng dậy đi vào nhà vệ sinh tránh mặt nhưng bị N nhìn thấy đuổi theo. N dùng tuýp sắt đánh ông Đ nhưng ông Đ cầm 01 cái ghế nhựa lên đỡ, do lực mạnh nên ông Đ làm rơi ghế xuống đất, N tiếp tục dùng tuýp sắt đánh từ trên xuống, từ phải sang trái vào người ông Đ, ông Đ đưa tay trái lên đỡ. N dùng tuýp sắt chọc thẳng vào mắt phải của ông Đ gây thương tích. Thấy ông Đ chảy máu nên N không tiếp tục đánh mà bỏ trốn khỏi hiện trường, ông Đ được người dân đưa đi cấp cứu. Cùng ngày, ông Đ đến Cơ quan Công an trình báo toàn bộ hành vi phạm tội của N.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0577/TgT/2019 ngày 17/7/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đồng Nai kết luận tỷ lệ thương tích của ông Phạm Thành Đ, như sau:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Chấn thương mắt phải gây lệch thủy tinh thể ra sau, vẫn đục dạng đám pha lê thể, phù giác mạc, xuất huyết tiền phòng đã được điều trị hiện thị lực mắt phải đếm ngón tay 2m, mắt trái bình thường (áp dụng Chương 11, điều II, mục 6). Tỷ lệ: 41%.
- Tổn thương gãy xương trụ trái hiện ổ gãy di lệch (áp dụng Chương 8, điều II, mục 10.2). Tỷ lệ: 21%.
- Vết thương mi mắt phải kích thước 01x0,1cm (áp dụng Chương 9, điều I, mục 1). Tỷ lệ: 01%.
- Vết thương mi dưới mắt phải kích thước 01x0,1cm (áp dụng Chương 9, điều I, mục 1). Tỷ lệ: 01%.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể (áp dụng theo phương pháp cộng lùi) do thương tích gây nên thời điểm giám định là: 54% (năm mươi bốn phần trăm).
3. Kết luận khác:
Vật gây thương tích: Vật tày.” Đối với 01 tuýp sắt dài khoảng dài khoảng 1,2m hình trụ tròn N sử dụng để đánh ông Đ, sau khi thực hiện hành vi phạm tội N đã vứt bỏ bên đường nên không thu hồi được.
Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Ông Phạm Thành Đ không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Tại bản cáo trạng số: 343/CT-VKS-DA ngày 23 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Thành N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134 và điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Thành N mức hình phạt từ 05 năm tù đến 05 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Thành Đ, đã thỏa thuận bồi thường xong và có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thành N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Hành vi của bị cáo Lê Thành N sử dụng hung khí nguy hiểm là 01 ống tuýp sắt đánh gây thương tích cho ông Phạm Thành Đ với tỷ lệ tổng thương cơ thể là 54% vào ngày 24/6/2019 tại quán dê “T” trên đường Võ Thị S, khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương đã đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích.
Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Thành N phạm “Tội cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Do đó Cáo trạng số 343/CT-VKS ngày 23 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo Lê Thành N là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại và bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu và bị Tòa án xét xử nhiều lần.
[7] Về vật chứng: Đối với 01 tuýp sắt dài khoảng dài khoảng 1,2m hình trụ tròn N sử dụng để đánh ông Đ, sau khi thực hiện hành vi phạm tội N đã vứt bỏ bên đường nên không thu hồi được.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong và tại phiên tòa không yêu cầu gì khác nên hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Thành N phạm Tội cố ý gây thương tích. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Thành N 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2020.
2. Án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Thành N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án 339/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 339/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về