Bản án 338/2020/HSST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 338/2020/HSST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 370/2020/HSST ngày 24/11/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 376/QĐXX -ST ngày 25/11/2020, đối với bị cáo:

Lương Hữu H- Sinh năm: 1974; HKTT và nơi ở: tổ 7, phường T, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Lương Đình H; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị N; Tiền án: 01 tiền án năm 2012 về tội “ Đánh bạc” đã xóa án tích; Tiền sự: 01 tiền sự cai nghiện bắt buộc năm 2013, đã hết thời hiệu; Bắt quả tang ngày 26/7/2020; Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú”; ( Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 23/7/2020, H đi ra khu vực Cầu Mai Động, gặp và mua của một người đang ông không quen biết 01 gói ma túy giá 300.000đ, mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, H đã sử dụng một phần. Số ma túy còn lại H cất vào túi quần sau đang mặc để sử dụng dần.

Khoảng 02 giờ sáng ngày 26/7/2020, H bắt xe ôm của anh Nguyễn Quý D đi từ phố Bát Đàn, Hà Nội đi về nhà. Khoảng 03 giờ sáng cùng ngày, khi đi đến khu vực số 308 phố B, phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì Tổ công tác C2-D2- PK02E Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ dừng xe máy của anh D để kiểm tra. Khi Công an kiểm tra, H tự nguyện lấy từ trong túi quần phía sau bên trái 01 túi nilon trong suốt, dán kín, kích thước khoảng 2,5x2,5cm giao nộp cho tổ công tác, H khai là ma túy đá. Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong tang vật đưa H và anh D về trụ sở Công an phường Bạch Mai để điều tra làm rõ.

Cơ quan Công an đã thu giữ của H 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng. Thu giữ của anh Nguyễn Quý D 01 xe máy Honda Wave, biển kiểm soát 30F6-2506.

Tại Bản kết luận giám định số 6903/KLGĐ-PC09 ngày 01/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội kết luận: tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon màu trắng thu giữ của Lương Hữu H là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,120 gam.

Đối với đối tượng bán ma túy cho H: Cơ quan điều tra đã dẫn giải H đến địa điểm mua ma túy, nhưng không xác định được người đàn ông bán ma túy, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với anh Nguyễn Quý D: không biết H tàng trữ trái phép chất ma túy, nên Cơ quan điều tra không xử lý. Cơ quan điều tra đã trả lại anh D chiếc xe máy Honda Wave, biển kiểm soát 30F6-2506.

Tại Bản cáo trạng số 344/CT/VKS-HBT ngày 13/11/2020, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Lương Hữu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng căn cứ lời khai thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa, cũng như trong quá trình điều tra, xác định bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố Lương Hữu H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Xử phạt: Lương Hữu H từ 15 đến 18 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo;

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,120 gam ma túy loại Methamphetamine;

Trả lại bị cáo 02 điện thoại di động;

Bị cáo Lương Hữu H công nhận nội dung bản cáo trạng, lời luận tội của Viện kiểm sát là đúng hành vi bị cáo thực hiện. Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét hành vi của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; Căn cứ Bản kết luận giám định số 6903/KLGĐ-PC09 ngày 01/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội; Căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang. Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: Ngày 26/7/2020, bị cáo Lương Hữu H đã có hành vi cất giữ trái phép 0,120 gam ma túy loại Methamphetamine trong người, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đi đến trước cửa số nhà 308, phố Bạch Mai, phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ ma túy.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác. Nhà nước đang dùng mọi biên pháp để ngăn chặn tệ nạn ma túy. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi. Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xét thấy, nhân thân bị cáo đã có tiền án về tội Đánh bạc, 01 tiền sự về đi cai nghiện bắt buộc. Mặc dù tiền án đã được xóa án tích, tiền sự đã hết thời hiệu nhưng thể hiện bị cáo không chịu cai nghiện để trở thành người công dân tốt. Vì vậy cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm về ma túy.

Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đề nghị xét xử bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Xử lý vật chứng: 0,120 gam ma túy loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo (trong 01 bì giấy đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Lương Hữu H) là chất gây nghiện bị cấm lưu hành. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy.

Về 02 điện thoại di động thu giữ của bị cáo: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không chứng minh được liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho bị cáo.

Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Xử phạt Lương Hữu H 12( Mười hai) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án( Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/7/2020 đến ngày 04/8/2020).

nh phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo.

Xử lý vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy: 0,120 gam ma túy loại Methamphetamine (đựng trong 01 bì giấy đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Lương Hữu H).

- Trả lại bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng trắng Imei1:

863632032761799, Imei2: 863632032761781( không kiểm tra nội dung dữ liệu bên trong máy); 01 diện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng Imei: 356555089022092( không kiểm tra nội dung dữ liệu bên trong máy).

Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 20/11/2020.

Về án phí: Bị cáo Lương Hữu H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 338/2020/HSST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:338/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về