Bản án 338/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 338/2019/HS-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 354/2019/HSST ngày 08 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 354/2019/HSST-QĐ ngày 09/10/2019 đối với bị cáo:

Trương Bá D, sinh năm 1974 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 64/44 Ng, phường 2, Quận 4, Thành phố H; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trương Công M (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Lệ Th (đã chết); tiền sự, tiền án: Không có.

Nhân thân:

+ Ngày 24/6/1992, Tòa án nhân dân Q, Thành phố H xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 20 tháng về tội Trộm cắp tài sản của công dân, theo bản án số 95, bị cáo nộp xong án phí ngày 24/3/1993

+ Ngày 22/8/2000, Tòa án nhân dân Q, Thành phố H xử phạt 7 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân, theo bản án số 295, ngày 11/12/2000 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/11/2000 nộp án phí.

+ Ngày 11/10/2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Thành phố H xử phạt 05 năm tù về tội Cướp giật tài sản, theo bản án số 1463, ngày 22/2/2011 chấp hành xong hình phạt tù, nộp xong án phí ngày 21/1/2008

+ Ngày 18/5/2015, Tòa án nhân dân Quận Th, Thành phố H xử phạt 9 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 151, ngày 16/9/2015 chấp hành xong hình phạt tù, nộp án phí ngày 24/6/2016.

Bị bắt giam ngày 13/7/2019, có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Cảnh B, sinh năm 1988; thường trú: Xóm Tr, xã H, huyện N, tỉnh Ngh, có yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

1. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990; thường trú: Ấp Ph, xã Ph, huyện Ch, tỉnh B, vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1961; thường trú : 80 L, phường 14, quận B, Thành phố H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ ngày 03/5/2019, bị cáo Trương Bá D đi qua dãy nhà trọ số 31/30 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh B, lúc này trước cửa phòng trọ có dựng xe mô tô biển số 53S3 – 5283, D đi vào gặp anh Nguyễn Cảnh B đang ngủ, D lấy 01 ví của anh B bên trong có 500.000 đồng, D cầm tiền, vứt bỏ ví trước cửa phòng, sau đó lấy chìa khóa xe mô tô để trên bàn mở khóa xe dắt xe ra ngoài nổ máy điều khiển đến gửi ở bến xe Miền Đông, Thành phố Hồ Chí Minh sau đó đón xe quay trở lại phòng ở trọ của D. Đến 04 giờ 30 phút cùng ngày, D đi bộ đến phòng anh B lấy giấy tờ xe mô tô trong chiếc ví rồi vứt bỏ chiếc ví sau đó đi lấy xe mô tô đã gửi điều khiển xe đến cầm cố cho người tên T (không rõ nhân thân) ở Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh được 2.000.000 đồng. Sáng ngày 03/5/2019 anh Nguyễn Cảnh B đến công an phường An Bình trình báo sự việc. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 13/7/2019, công an phường An Bình kiểm tra hành chính đối với D, D khai nhận việc chiếm đoạt xe mô tô ngày 03/5/2019 của anh B.

Tài sản thiệt hại: Xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, số khung 0372309- C100M, số máy 0372309-C100ME, biển số 53S – 5283 không thu hồi được.

Kết luận định giá số 160/BB.ĐG ngày 19/7/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream biển số 53S – 5283 của anh B trị giá 10.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Cảnh B yêu cầu bị cáo D bồi thường tài sản bị chiếm đoạt gồm tiền, xe mô tô với tổng trị giá 10.500.000 đồng.

Người tên T không rõ nhân thân nhận cầm cố xe mô tô cho Trương Bá D tại Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh. Công an thị xã Dĩ An tách điều tra xác minh xử lý sau.

Cáo trạng số 372/CT-VKS ngày 07/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh B Dương truy tố bị cáo Trương Bá D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo D từ 1 năm đến 1 năm 6 tháng tù.

Bị cáo D không tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội, trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo D nói lời sau cùng. Bị cáo xin lỗi người bị hại, biết hành vi của mình là sai, bị cáo xin được giảm nhẹ mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo: Biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú, lời khai bị hại, người làm chứng, biên bản ghi lời khai bị cáo, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện. Khoảng 3 giờ ngày 03/5/2019 bị cáo Trương Bá D lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu biển số 53S – 5283 trị giá 10.000.000 đồng và số tiền 500.000 đồng của anh Nguyễn Cảnh B, tổng tài sản chiếm đoạt 10.500.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của bị cáo D đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 372/CT-VKS ngày 07/10/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh B Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo D có nhân thân rất xấu thể hiện bị cáo không có nghề nghiệp, bị cáo nhiều lần phạm tội Trộm cắp tài sản của công dân, cướp giật tài sản, tuy bị cáo được xóa án tích nhưng lần phạm tội này của bị cáo thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo D phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản thiệt hại không thu hồi được, bị hại B yêu cầu bị cáo D bồi thường số tiền 10.500.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[4] Đối với người tên T không rõ nhân thân cầm xe mô tô cho bị cáo D với số tiền 2.000.000 đồng, Công an thị xã Dĩ An tách điều tra xác minh xử lý sau là phù hợp.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh B Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt cũng như trách nhiệm dân sự đối với bị cáo D. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo D phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm, án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Bá D phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự .

Xử phạt bị cáo Trương Bá D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/7/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bị cáo Trương Bá D phải bồi thường cho anh Nguyễn Cảnh B số tiền 10.500.000 đồng (mười triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Trương Bá D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 525.000 đồng (năm trăm hai mươi lăm nghìn) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 338/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:338/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về