Bản án 336/2017/HSST ngày 30/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 336/2017/HSST NGÀY 30/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 830 tháng 10 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai. Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 371/2017/HSST ngày 13/10/2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 346/2017/QĐXX-ST ngày 17 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo sau:

Bùi Ngọc H - sinh năm 1986; ĐKHKTT: Tổ 10 phường T, Quận H, Hà Nội; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp:Tự do; Con ông: Bùi Đăng P; Con bà: Nguyễn Thị N; DCB số 670 ngày 21/7/2017; Tiền án: Bản án số 44/HSST ngày 24/02/2006 Tòa án nhân dân quận H xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 20 tháng trị giá tài sản 1.650.000 đồng ( đã xóa án tích) .

Tiền sự : Năm 2006 đi cai nghiện bắt buộc 24 tháng -Năm 2010 đi cai nghiện bắt buộc 24 tháng

-Tháng 12/2016 đi cai nghiện 3 tháng tại trung tâm số IV-Hà Nội về tháng 3/2017.

Đầu thú ngày 17/7/2017. Hiện đang tạm giam tại Trại giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại: Ông Bùi Đăng P - sinh năm 1961

Trú tại số Tổ 10 phường T, Quận H, Hà Nội

Vắng mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đặng Văn H

Trú tại: Tổ 27 phường T, Quận H, Hà Nội

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Ngọc H ở cạnh nhà với bố mẹ là ông Bùi Đăng P ( sinh năm 1961) và bà Nguyễn Thị N ( sinh năm 1967) trên cùng mảnh đất thuộc tổ 10 phường T, Quận Hoàng Mai, Hà Nội. Khoảng 10 giờ ngày 16/7/2017, sau khi ngủ dậy, H gọi điện và gọi cửa nhà ông P, bà N nhiều lần nhưng không thấy trả lời, biết bố mẹ không có nhà nên H đã phá cửa kính và bẻ cong chắn song kim loại cửa sổ cạnh nhà ông P rồi trèo vào trong nhà trộm cắp 01 chiếc đồng hồ cây bằng gỗ kích thước (200x 30x30) cm dạng đồng hồ quả lắc để trong phòng khách.Sau đó,H mở cửa chính từ bên trong rồi nhờ lái xe taxi bê đồng hồ ra ngoài xe taxi chở đồng hồ đi bán. Khi đi đến ngõ 1277 G, phường T, Quận H , Hà Nội thì gặp Đặng Văn H (sinh năm 1988- HKTT tổ 27 phường T, Quận H , Hà Nội ) và bán cho H với giá 5.000.000 đồng. Khi bán cho H, H không nói chiếc đồng hồ do H trộm cắp mà có. Số tiền này, H đã chi tiêu cá nhân hết.

Đến khoảng 20h30 phút cùng ngày, ông P về nhà phát hiện sự việc và đến cơ quan công an trình báo. Ông P khai mua chiếc đồng hồ trên vào năm 2014 với giá 20.000.000 đồng, đến thời điểm bị mất chiếc đồng hồ còn trị giá 10.000.000 đồng. Đối với tài sản bị hư hỏng và chiếc đồng hồ H trộm cắp không thu hồi được, ông P không có yêu cầu gì đối với H về việc bồi thường dân sự Ngày 17/7/2017 Bùi Ngọc H đến cơ quan công an đầu thú và trình bày nội dung sự việc như trên, H không nhớ hãng taxi H gọi là hãng nào cũng không có mối quan hệ gì với người lái xe taxi đã bê đồng hồ cùng H, khi nhờ người này bê đồng hồ giúp, H không nói chiếc đồng hồ do H trộm cắp mà có.

Tại cơ quan điều tra, Đặng Văn H khai mua của H chiếc đồng hồ trên với giá 5.000.000 đồng, khi bán cho H, H nói là của gia đình H không dùng nữa nên bán.Sau đó H kiểm tra đồng hồ không chạy được nên đã bán cho thợ sửa đồng hồ không quen biết (H tìm trên mạng) với giá 7.000.000 đồng. H không nhớ trang mạng nào cũng không biết tên tuổi, địa chỉ của thợ sửa đồng hồ. Hiện không thu hồi được. H không biết chiếc đồng hồ này do H trộm cắp mà có nên cơ quan công an không xử lý.

Ngày 14/9/2017 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàng Mai kết luận: Tài sản đề nghị định giá do không có đủ căn cứ để kiểm định, xác định được giá trị, chất lượng còn lại của tài sản nên không tiến hành định giá được. Căn cứ lời khai bị hại tại thời điểm mua chiếc đồng hồ đến thời điểm bị trộm cắp,tiến hành khảo sát giá trị chiếc đồng hồ quả lắc tại cửa hàng bán đồng hồ xác định 01 chiếc đồng hồ cây bằng gỗ kích thước (200x 30x30) cm dạng đồng hồ quả lắc trị giá 10.000.000 đồng .

Tại bản cáo trạng số 350/CT/VKS-HS ngày 12 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố bị cáo Bùi Ngọc H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ Luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, Điều 46, Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Ngọc H mức án từ 12 đến 14 tháng tù .

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ xung là phạt tiền cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét.

Bị cáo phải truy nộp số tiền 5.000.000 đồng thu lời bất chính để xung công quỹ nhà nước.

Anh Đặng Văn H phải truy nộp số tiền 2.000.000 đồng xung công quỹ nhà nước.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận Hoàng Mai truy tố tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Bị cáo không có tranh luận gì với đối với kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Hoàng Mai.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Khoảng 10h30 phút ngày 16/7/2017 tại nhà ông Bùi Đăng P ở tổ 10 T, Hoàng Mai, Hà Nội. Bùi Ngọc H đã trộm cắp 01 chiếc đồng hồ cây bằng gỗ kích thước (200x 30x 30) cm dạng đồng hồ quả lắc trị giá 10.000.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục bị cáo riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đối tượng nghiện hút 3 lần đi trung tâm cai nghiện, 1 tiền án năm 2006 về tội trộm cắp tài sản tuy đã được xóa án nhưng cũng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu cần có một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, bị cáo đã ra đầu thú khai báo về hành vi của mình áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do là đối tượng nghiện hút không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về phần dân sự nên không xem xét.

Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 5.000.000 đồng thu lợi bất chính để xung quỹ nhà nước.

Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đặng Văn H mua chiếc đồng hồ của H số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi mua chiếc đồng hồ do không sử dụng được nên anh H đã bán lại được 7.000.000 ( bảy triệu) đồng. Khi mua đồng hồ của Bùi Ngọc H, anh H không biết tài sản do Hà trộm cắp được mà có. Số tiền 2.000.000 đồng được hưởng lợi anh H đã nộp cho cơ quan điều tra để xung quỹ nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 99 Bộ Luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án .

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231,234 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 Điều 33, Điều 41 Bộ luật hình sự.

Áp dụng Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bùi Ngọc H 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày ra đầu thú 17/7/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

Bị cáo phải truy nộp số tiền 5.000.000 đồng xung quỹ nhà nước.

Anh Đặng Văn H phải truy nộp số tiền 2.000.000 đồng xung công quỹ nhà nước. Xác nhận anh H đã nộp số tiền 2.000.000 đồng theo giấy nộp tiền vào tài sản số 3949 ngày 27 tháng 10 năm 2017 ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn chi nhánh Hoàng Mai phòng giao dịch Giáp Bát.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm .

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 336/2017/HSST ngày 30/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:336/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về