Bản án 333/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 333/2019/HSST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 318/2019/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 336/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019, đối với:

Bị cáo NGUYỄN THỊ HỒNG N.

Sinh ngày: 13/3/1999; tại: Đắk Lắk.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hoàng V (không rõ năm sinh, ở đâu) và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1979; bị cáo chưa có chồng, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/9/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột; có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T. Sinh năm 1992.

Trú tại: Thôn X, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.

Ông Ngô Chí H. Sinh năm 1990.

Trú tại: Thôn K, xã H, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk; vắng mặt.

Bà Trần Thị Kim Y. Sinh năm 1973.

Trú tại: Đường N, phường T thành phố B, tỉnh Đăk Lăk; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trương Đắc T. Sinh năm 1973.

Trú tại: Khối X, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Thị Hồng N bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Thị Hồng N, là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy loại Methamphetamine (hay còn gọi là ma túy đá) từ năm 2017. Tháng 9 năm 2019, do không có việc làm ổn định, N mua ma túy đá vừa sử dụng vừa bán lại cho người khác kiếm lời. Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 10 tháng 9 năm 2019, N sử dụng điện thoại Iphone màu hồng gắn sim số 0935.710.121 gọi vào số điện thoại của Nhóc 0944.744.790 (không rõ nhân thân, lai lịch) ở xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk hỏi mua ma túy thì Nhóc đồng ý. Sau đó, N gọi xe taxi hãng Quyết Tiến mang biển kiểm soát 47A-204.69 do anh Nguyễn Văn T điều khiển chở N đến địa phận xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Đến nơi, N xuống xe một mình đi đến căn nhà hoang (không rõ địa chỉ) gặp nam thanh niên tên T (không rõ nhân thân lai lịch) là người bán ma túy cho N mua một gói nylon chứa ma túy đá với số tiền 1.600.000 (một triệu sáu trăm ngàn) đồng. Sau khi mua được ma túy, N cất gói ma túy vào ví da màu nâu để trong giỏ xách màu đen ra xe taxi đi về. Khi xe chạy đến trước Công ty cổ phần đô thị và môi trường số 01 Đào Duy Từ, phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột thì bị đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Buôn Ma Thuột yêu cầu dừng xe kiểm tra. Lúc này, N tự giác lấy gói nylon chứa ma túy đá trong ví da màu nâu để trong túi xách màu đen ra giao nôp, khai nhận là ma túy đá và được niêm đúng theo quy định của pháp luật.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ:

- Thu giữ của N: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng Model A1688 gắn sim số; 01 (một) chiếc giỏ xách màu đen; 01 (một) ví da màu nâu; 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Microsoft màu đen (không có sim); 01 (một) đồng hồ đeo tay màu đen, ghi chữ Marc by Marc Jacobs; 01 (một) đồng hồ đeo tay màu trắng, ghi chữ Pulsar Access.

- Thu giữ của anh Tạ: 01 (một) xe ô tô hiệu Nissan Grand Livina màu trắng mang biển kiểm soát 47A-204.69.

Tại bản kết luận giám định số: 772/GĐMT-PC09 ngày 17 tháng 9 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,7396 gam, loại: Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 1,5973 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu.

Tại bản cáo trạng số 333/CT-VKS ngày 12 tháng 11 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hồng N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Hồng N như bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng N từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy 1,5973 gam Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 772/GĐMT-PC09 ngày 17 tháng 9 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là vật chứng của vụ án.

+ Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng Model A1688, gắn sim số; một giỏ xách màu đen; một ví da màu nâu là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo N: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Microsoft màu đen (không có sim); 01 (một) đồng hồ đeo tay màu đen, ghi chữ Marc by Marc Jacobs; 01 (một) đồng hồ đeo tay màu trắng, ghi chữ Pulsar Access, là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

+ Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định trả lại chiếc xe ô tô hiệu Nissan Grand Livina màu trắng mang biển kiểm soát 47A-204.69 cho anh Ngô Chí H nhận lại xe quản lý và sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội như trong bản Cáo trạng; bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Thị Hồng N tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến trong quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng đã thu được; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ 30 phút sáng ngày 10 tháng 9 năm 2019, trước Công ty cổ phần Đô thị và Môi trường, số 01 Đào Duy Từ, phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Nguyễn Thị Hồng N đã có hành vi cất giấu 1,7396 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời thì bị phát hiện và bắt quả tang.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hồng N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý nhà nước về ma túy. Ma túy là chất gây nghiện, có tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của con người, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác; là nỗi nhức nhối của toàn xã hội.

Khi phạm tội, bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, bị cáo biết và buộc phải biết việc mua bán trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào đều là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị pháp luật trừng trị. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động, ham muốn thu lợi bất chính nên bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội trong công cuộc phòng, chống ma túy.

Tuy nhiên, xét về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Vì vậy, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo N, Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp, nên cần chấp nhận.

- Đối với nguồn ma túy, bị cáo N khai mua của N và T (không rõ nhân thân, lai lịch) ở xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình điều tra do chưa xác minh được nhân thân, lai lịch và thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tách hành vi của Nh và T ra khỏi vụ án và có công văn trao đổi thông tin tội phạm với Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk để điều tra, xử lý theo thẩm quyền, là phù hợp.

- Đối với anh Nguyễn Văn T là tài xế chạy xe taxi. Ngày 10 tháng 9 năm 2019, anh T không biêt việc chở bị cáo N đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý anh T là phù hợp.

- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, là phù hợp.

[3] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy 1,5973 gam Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 772/GĐMT-PC09 ngày 17 tháng 9 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là vật chứng của vụ án.

+ Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng Model A1688, gắn sim số; một giỏ xách màu đen; một ví da màu nâu là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo N: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Microsoft màu đen (không có sim); 01 (một) đồng hồ đeo tay màu đen, ghi chữ Marc by Marc Jacobs; 01 (một) đồng hồ đeo tay màu trắng, ghi chữ Pulsar Access, là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

+ Đối với chiếc xe ô tô hiệu Nissan Grand Livina màu trắng mang biển kiểm soát 47A-204.69, tạm giữ của anh Nguyễn Văn T. Quá trình điều tra, xác minh chiếc xe trên anh Nguyễn Văn T cùng anh Ngô Chí H mua của chị Trần Thị Kim Y để chạy taxi hãng Quyết Tiến nhưng do anh H đứng tên trong hợp đồng mua xe nhưng chưa sang tên đổi chủ. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định trả lại chiếc xe ô tô trên cho anh Ngô Chí H nhận lại xe quản lý và sử dụng là phù hợp, nên cần chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh T và anh H không có yêu cầu gì.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự;

[1] Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Thị Hồng N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt Nguyễn Thị Hồng N: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù: Kể từ ngày bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam, ngày 10/9/2019.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy 1,5973 gam Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 772/GĐMT-PC09 ngày 17 tháng 9 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là vật chứng của vụ án.

+ Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng Model A1688, gắn sim số; một giỏ xách màu đen; một ví da màu nâu là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo N: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Microsoft màu đen (không có sim); 01 (một) đồng hồ đeo tay màu đen, ghi chữ Marc by Marc Jacobs; 01 (một) đồng hồ đeo tay màu trắng, ghi chữ Pulsar Access, là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

(Đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/11/2019 giữa Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột).

+ Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định trả lại chiếc xe ô tô hiệu Nissan Grand Livina màu trắng mang biển kiểm soát 47A-204.69 cho anh Ngô Chí H nhận lại xe quản lý và sử dụng.

(Đặc điểm như biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 04/10/2019 giữa Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột với anh Ngô Chí H).

[3] Về trách nhiệm dân sự: Anh T và anh H không có yêu cầu gì nên không đặt ra để xem xét.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Thị Hồng N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 333/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:333/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về