TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 332/2021/HNGĐ-PT NGÀY 09/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 09 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2021/TLPT-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn”.
Do Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 1211/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1081/2021/QĐ-PT ngày 16 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Hà Thị Mỹ D, sinh năm 1983 (có mặt) Hộ khẩu thường trú: Số 40/2 khu phố 4, thị trấn HM, huyện HM, Thành phố H.
Bị đơn: Ông Nguyễn Đức N, sinh năm 1988 (có mặt) Địa chỉ: Số 40/2 khu phố 4, thị trấn HM, huyện HM, Thành phố H.
- Do có kháng cáo của: Bị đơn ông Nguyễn Đức N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn đề ngày 20/02/2020 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Hà Thị Mỹ D trình bày:
Về hôn nhân: Bà Hà Thị Mỹ D đăng ký kết hôn với ông Nguyễn Đức N tại Ủy ban nhân dân thị trấn DT, huyện DT, tỉnh BD vào ngày 30/8/2013 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 223, Quyển số 02/2013. Sau khi kết hôn được một thời gian, do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình hai bên không hòa hợp nên giữa vợ chồng thiếu sự quan tâm, chia sẻ, cảm thông. Ông N không tôn trọng bà D, thường xuyên xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bà D và gia đình bà D, đồng thời ông N có quan hệ với người phụ nữ khác. Từ tháng 6 năm 2018 giữa bà D và ông N đã sống ly thân với nhau và hiện tại bà D đã dọn ra ngoài không còn sống chung với ông N nữa. Trong thời gian bà D và ông N sống ly thân, ông N không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình và không thay đổi tính tình. Hiện nay bà D không còn tin tưởng và thương yêu ông N nữa, giữa hai vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể hạnh phúc, do vậy bà D cương quyết yêu cầu ly hôn ông N.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Tuấn Đ, sinh ngày 29/3/2015 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 05/02/2019.
Hiện nay cháu T đang sống chung với bà D, còn cháu Đ đang sống chung với ông N. Tại thời điểm nộp đơn xin ly hôn, bà D đề nghị được trực tiếp nuôi 02 con và không yêu cầu ông N cấp dưỡng. Bà D xác định trường hợp vợ chồng ly hôn, bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và đồng ý giao cháu Đ cho ông N trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào cấp dưỡng tiền nuôi con cho bên nào.
Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại các bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Đức N trình bày:
Về hôn nhân: Ông N thừa nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như bà Hà Thị Mỹ D trình bày là đúng. Ông N thừa nhận giữa vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn. Trong cuộc sống vợ chồng, do tính cách hai bên không hòa hợp nên thường phát sinh mâu thuẫn tranh cãi nhau, những lúc nóng giận ông N có những lời lẽ thiếu tôn trọng với bà D, tuy nhiên đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ trong gia đình, không đến mức trầm trọng phải ly hôn. Qua những lần hòa giải tại Tòa án, ông N cũng mong muốn vợ chồng hàn gắn để đoàn tụ nhưng bà D vẫn cương quyết xin ly hôn, ông N đề nghị Tòa án xem xét tạo điều kiện cho vợ chồng hàn gắn hạnh phúc gia đình.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Tuấn Đ, sinh ngày 29/3/2015 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 05/02/2019. Nếu ly hôn ông N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con và không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 1211/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1/. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hà Thị Mỹ D được ly hôn với ông Nguyễn Đức N.
2/. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Tuấn Đ, sinh ngày 29/3/2015 cho ông Nguyễn Đức N trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Hà Thị Mỹ D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 05/02/2019; tạm ngưng tiền cấp dưỡng nuôi con đối với các bên cho đến khi một trong hai bên có đơn yêu cầu.
Vì lợi ích con chung, bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến quyền này. Khi cần thiết một hoặc cả hai bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định mức cấp dưỡng nuôi con.
3/. Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/12/2020, bị đơn ông Nguyễn Đức N kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 1211/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H, không chấp nhận đơn ly hôn của bà Hà Thị Mỹ D, cho bà D và ông N đoàn tụ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Đức N giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân Thành phố H tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử phúc thẩm và các đương sự thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung kháng cáo:
- Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đức N xin đoàn tụ: Qua xem xét chứng cứ đã thu thập tại hồ sơ và trình bày của ông Nguyễn Đức N tại phiên tòa, xét thấy vợ chồng ông N và bà D đã phát sinh mâu thuẫn từ năm 2018 cho đến nay, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ. Căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đức N, giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 1211/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
I. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Đức N làm trong hạn luật định và ông N đã thực hiện nghĩa vụ của người kháng cáo phù hợp với các quy định tại Điều 271, 272, 273 và Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
II. Về nội dung:
Xem xét yêu cầu kháng cáo xin đoàn tụ của bị đơn ông Nguyễn Đức N, phần trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ đã thu thập, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Đức N và bà Hà Thị Mỹ D tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và đã được Ủy ban nhân dân thị trấn DT, huyện DT, tỉnh BD cấp giấy chứng nhận kết hôn số 223, Quyển số 02/2013 ngày 30/8/2013, được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Bà Hà Thị Mỹ D xin ly hôn ông Nguyễn Đức N với lý do vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp, thiếu tôn trọng lẫn nhau dẫn đến thường xuyên cãi vã, xúc phạm nhau. Do cuộc sống chung không hạnh phúc nên từ tháng 6/2018 vợ chồng đã sống ly thân nhau và bà D đã dọn ra ngoài sống. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân đến nay, bà D cho rằng ông N không thay đổi tính tình, có lời lẽ và thái độ xúc phạm đến bà D và gia đình bà D dẫn tới mối quan hệ vợ chồng và mối quan hệ giữa ông N với gia đình bên vợ ngày càng xấu đi. Hiện nay bà D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể cải thiện, bà D không thể tiếp tục sống chung đối với ông N. Phía bị đơn ông N cho rằng còn thương yêu bà D, không muốn vợ chồng ly hôn để con cái sống thiếu cha lẫn mẹ. Xét thấy, hiện nay vợ chồng bà D, ông N đã sống ly thân nhau từ tháng 6/2018 và bà D đã dọn ra ngoài sinh sống, trong thời gian vợ chồng không sống chung với nhau, giữa bà D và ông N không còn tình yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, cũng như qua các lần hòa giải, cấp sơ thẩm đã tạo điều kiện cho ông N thời gian để ông N hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng ông N đã không có phương thức, biện pháp để vợ chồng đoàn tụ và không thể hiện được thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình, trong khi đó bà D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mẫu thuẫn đã trầm trọng và không thể tiếp tục sống chung với ông N. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông N yêu cầu đoàn tụ với bà D nhưng ông N cũng không đưa ra được phương thức, biện pháp để vợ chồng đoàn tụ, đối với bà D cương quyết yêu cầu ly hôn ông N; cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà D và ông N đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, không thể hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên cấp sơ thẩm đã Quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2] Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Tuấn Đ, sinh ngày 29/3/2015 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 05/02/2019.
Cấp sơ thẩm đã giao con chung Nguyễn Tuấn Đ, sinh ngày 29/3/2015 cho ông Nguyễn Đức N trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Nguyễn Minh T, sinh ngày 05/02/2019 cho bà Hà Thị Mỹ D trực tiếp nuôi dưỡng; tạm ngưng tiền cấp dưỡng nuôi con đối với các bên cho đến khi một trong hai bên có đơn yêu cầu là có căn cứ, phù hợp các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Từ những nhận định nêu trên, xét thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đức N về yêu cầu đoàn tụ với bà Hà Thị Mỹ D.
[4] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn Hà Thị Mỹ D phải chịu theo quy định của pháp luật.
[5] Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn ông Nguyễn Đức N phải chịu theo quy định của pháp luật.
[6] Xét ý kiến phát biểu đề nghị về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tại phiên tòa, như nhận định nêu trên, xét thấy có cơ sở nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng Khoản 1 Điều 148, Điều 271, Điều 272, Điều 273, Điều 276, Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
I. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Đức N về yêu cầu đoàn tụ với bà Hà Thị Mỹ D.
II. Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 1211/2020/HNGĐ- ST ngày 27/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H, cụ thể như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị Mỹ D đối với bị đơn ông Nguyễn Đức N.
II.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hà Thị Mỹ D được ly hôn ông Nguyễn Đức N. II.2. Về con chung: Có 02 trẻ Nguyễn Tuấn Đ, sinh ngày 29/3/2015 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 05/02/2019.
Giao con chung trẻ Nguyễn Tuấn Đ cho ông Nguyễn Đức N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Giao con chung trẻ Nguyễn Minh T cho bà Hà Thị Mỹ D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với các bên cho đến khi một trong hai bên có đơn yêu cầu.
Việc giao nhận con chung do hai bên đương sự tự thi hành hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành.
Vì lợi ích con chung, bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến quyền này. Khi cần thiết một hoặc cả hai bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định mức cấp dưỡng nuôi con.
II.3. Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
III. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn bà Hà Thị Mỹ D phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí do bà Hà Thị Mỹ D đã nộp theo biên lai thu tiền số 0077721 ngày 10 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HM, Thành phố H.
IV. Án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Đức N phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí do ông Nguyễn Đức N đã nộp theo biên lai thu tiền số 0077144 ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HM, Thành phố H.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án.
Bản án 332/2021/HNGĐ-PT ngày 09/04/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 332/2021/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về