Bản án 332/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 332/2018/HS-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã H, thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 252/2018/TLST- HS ngày 26 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 319/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Quốc T (tên gọi khác: Luyện), sinh năm 1996, tại Bến Tre. Nơi đăng ký HKTT: ấp 2, xã A, huyện C, tỉnh B. Chổ ở hiện nay: khu phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Sửa xe. Trình độ học vấn: 9/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Phật. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trương Thành L, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1969. Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất; chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang ngày 02/4/2018, chuyển tạm giam theo lệnh số: 182 ngày 09/4/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Quốc T là người nghiện ma túy. Khoảng 18 giờ ngày 02/4/2018, Toàn đến khu vực Công viên 30/4 thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai mua của người thanh niên tên N (chưa rõ lai lịch) 04 (bốn) gói ma túy, với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Sau đó, Toàn mang số ma túy vừa mua được đến thuê phòng 302- Nhà nghỉ Khánh Giàu thuộc ấp N, xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai để sử dụng. Tại đây, T đã sử dụng hết 01 (một) gói ma túy, còn lại 03 (ba) gói ma túy, T cất giấu để tiếp tục sử dụng. Đến 23 giờ cùng ngày, T đang cất giấu 01 (một) gói ma túy trong túi quần sau bên trái T đang mặc, 02 (hai) gói ma túy trong bao thuốc lá Jet và để trên bàn trong phòng 302 thì bị Công an xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang chuyển giao đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Trương Quốc T khai nhận hành vi phạm tội như trên.

* Vật chứng, tài sản thu giữ của Trương Quốc T, gồm:

+ 03 (ba) gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số imel 357.259.050.949.459, số 0123.715.4951 và 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) của Trương Quốc T không liên quan đến vụ án.

* Tại kết luận giám định số: 194/PC54-GĐMT ngày 09/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận:

“- Mẫu tinh thể màu trắng (kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng là 0,0775 gam, loại: Methamphetamine”.

- Mẫu tinh thể màu trắng (kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng là 0, 2049 gam, loại: Methamphetamine”.

Tại cáo trạng số: 256/CT/VKSBH ngày 19 tháng 7 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố Trương Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B tham gia phiên tòa nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Quốc T mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Quốc T không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm được trở lại cộng đồng xã hội.

Về án phí: Bị cáo Trương Quốc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[2] Về nội dung vụ án, tội danh và áp dụng điều luật:

Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo Trương Quốc T đã khai nhận: Vào lúc 23 giờ 00 phút ngày 02/4/2018, tại phòng 302- Nhà nghỉ Khánh Giàu thuộc ấp N, xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Trương Quốc T có hành vi tàng trữ trái phép 0,2824 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an xã H, thành phố B phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Trương Quốc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo cũng đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Xét kinh tế bị cáo còn khó khăn, bản thân lại nghiện chất ma tuý, không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Ma túy loại Methamphetamine là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ số lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong gói niêm phong số: 194 ngày 09/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số imel 357.259.050.949.459, số 0123.715.4951 và 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) là tài sản của Trương Quốc T do không liên quan đến việc phạm tội.

[7] Đối với đối tượng tên N (chưa rõ lai lịch) đã bán ma túy cho Trương Quốc T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục làm rõ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa, xét thấy tương đối phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trương Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Trương Quốc T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù . Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu và tiêu huỷ lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong gói niêm phong số: 194 ngày 09/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số imel 357.259.050.949.459, số 0123.715.4951 và 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) là tài sản của Trương Quốc T do không liên quan đến việc phạm tội.

(Theo biên lai thu tiền số 000262 ngày 02/8/2018 và biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/8/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trương Quốc T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo Trương Quốc T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 332/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:332/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về