Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 303/2020/TLST–HNGĐ, ngày 17 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXXST–HNGĐ, ngày 16 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Nguyệt N, sinh năm 1992; cư trú tại: Tổ Dân Phố 10, trị trấn E, huyện E, tỉnh Đăk Lawk.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trung T, sinh năm 1986; cư trú tại: ấp K, xã L, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị Định Thị Nguyệt N vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Trung T vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đinh Thị Nguyệt N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2014 chị N và anh T có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 03/02/2017. Thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị N yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Trung T.

Về quan hệ con chung: Chị N xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh T có với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Trung Tính, sinh ngày 19/12/2016 và Nguyễn Đinh Ngọc Mai, sinh ngày 11/02/2015. Hiện tại cháu Tính và cháu Mai đang sống chung với anh T. Nay chị N đồng ý cho anh T nuôi con, chị N xin không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị N không còn yêu cầu gì khác.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Trung T không cung cấp lời khai của mình cho Tòa án, Tòa án có đến nơi cư trú của anh T để lấy lời khai nhưng anh T vắng mặt. Cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nơi cư trú của anh T xác định: anh Nguyễn Trung T vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp K, xã L, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nhưng hiện tại anh T vắng mặt nơi cư trú, khi bỏ đi thì không có trình báo hay xin vắng mặt. Từ đó, Tòa án tiến hành niêm yết công khai tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án đúng quy định pháp luật nhưng đến nay anh Nguyễn Trung T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Đinh Thị Nguyệt N được ly hôn với anh Nguyễn Trung T;

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao hai cháu Nguyễn Trung Tính, sinh ngày 19/12/2016 và Nguyễn Đinh Ngọc Mai, sinh ngày 11/02/2015 cho anh Nguyễn Trung T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về quan hệ tài sản: Chị N không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Đinh Thị Nguyệt N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Trung T và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Nguyễn Trung T có nơi đăng ký thường trú tại ấp K, xã L, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Đinh Thị Nguyệt N tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị N. Bị đơn anh Nguyễn Trung T vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Trung T.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 03/02/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống đến nay, chị N xác định chị và anh T có phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị N không thể hàn gắn với anh T được nữa. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Nay chị N nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Trung T. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành xác minh được biết giữa chị N và anh T có phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng lúc sống chung thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Đinh Thị Nguyệt N được ly hôn với anh Nguyễn Trung T.

[2] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị N xác định giữa chị và anh T có với nhau 02 người con chung là cháu Nguyễn Trung Tính, sinh ngày 19/12/2016 và cháu Nguyễn Đinh Ngọc Mai, sinh ngày 11/02/2015. Hiện tại các cháu Tính và Mai đang sống chung với anh T. Chị N đồng ý cho anh T nuôi con và chị N xin không cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cả hai cháu Tính và Mai đang sống cùng anh T, đã có cuộc sống, môi trường ăn, ở, học ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao hai cháu Nguyễn Trung Tính, sinh ngày 19/12/2016 và Nguyễn Đinh Ngọc Mai, sinh ngày 11/02/2015 cho anh T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

[3] Về quan hệ tài sản: Chị N không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc chị Đinh Thị Nguyệt N phải chịu số tiền 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đinh Thị Nguyệt N.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đinh Thị Nguyệt N được ly hôn với anh Nguyễn Trung T.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Trung Tính, sinh ngày 19/12/2016 và cháu Nguyễn Đinh Ngọc Mai, sinh ngày 11/02/2015 cho anh Nguyễn Trung T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị N đều có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Chị Đinh Thị Nguyệt N không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đinh Thị Nguyệt N phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị N đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0003411 ngày 17/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về