Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 25/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 25 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 186/2021/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2021/QĐ-HPT ngày 25/5/2021.

Nguyên đơn: Anh Ngô Thế L, sinh năm 1987 (Vắng mặt).

Bị đơn: Chị Hồ Thị Thanh T, sinh năm 1987 (Vắng mặt). Cùng HKTT: khu 1, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn là anh Ngô Thế L trình bày: Anh và chị Hồ Thị Thanh T được tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 07/4/2009 tại UBND phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Cuộc sống vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì vợ thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay thấy vợ chồng không còn tình cảm nên anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn chị Hồ Thị Thanh T.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Ngô Linh Đ, sinh ngày 05/9/2009 và Ngô Hoàng Y, sinh ngày 14/10/2013. Hiện con đang ở cùng anh.

Tại đơn khởi kiện, anh đề nghị được nuôi 02 con chung. Tuy nhiên, quá trình giải quyết anh và chị T có trao đổi qua điện thoại về việc chị T có nguyện vọng được nuôi cháu Đ, cũng như tại Tòa án cháu Đ cũng trình bày nguyện vọng muốn ở với mẹ nên anh đề nghị mỗi người nuôi 01 con chung anh nuôi cháu Y, chị T nuôi cháu Đ và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn là chị Hồ Thị Thanh T vắng mặt tại phiên tòa. Tại bản tự khai chị T cho biết: Ngày 07/4/2009 chị và anh Ngô Thế L đăng ký kết hôn tại UBND phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình chung sống chị xác định vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016. Nguyên nhân mâu thuẫn là bất đồng quan điểm. Chị và anh L đã ly thân từ đó đến nay. Nay anh L làm đơn xin ly hôn, chị xác định vợ chồng không còn tình cảm nên chị đồng ý ly hôn anh L. Về con chung: Chị xác nhận vợ chồng có 02 con chung là Ngô Linh Đ, sinh ngày 05/9/2009 và Ngô Hoàng Y, sinh ngày 14/10/2013. Ly hôn chị đồng ý để anh Linh tiếp tục nuôi dưỡng cả 02 con chung. Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt.

Tòa án công bố lời khai, các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tham dự phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về trình tự thủ tục tố tụng dân sự: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi xét xử, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo nguyên tắc xét xử. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là chị Hồ Thị Thanh T đã được Toà án triệu tập nhưng vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc, hoà giải công khai chứng cứ và phiên tòa xét xử của Toà án.

Về nội dung: Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Ngô Thế L được ly hôn chị Hồ Thị Thanh T.

- Về con chung: Giao cho anh Ngô Thế L là người trực tiếp nuôi con chung là Ngô Hoàng Y, sinh ngày 14/10/2013. Chị Hồ Thị Thanh T là người trực tiếp nuôi con chung là Ngô Linh Đ, sinh ngày 05/9/2009. Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con, người không trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Vấn đề cấp dưỡng nuôi con và tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

- Về án phí: Anh Ngô Thế L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp, anh Ngô Thế L yêu cầu xin ly hôn chị Hồ Thị Thanh T và giải quyết nuôi con chung khi ly hôn nên quan hệ pháp luật giải quyết trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Bị đơn chị Hồ Thị Thanh T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, căn cứ Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố B thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Nguyên đơn anh Ngô Thế L và bị đơn chị Hồ Thị Thanh T đã được đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngô Thế L kết hôn với chị Hồ Thị Thanh T ngày 07/4/2009. Trước khi kết hôn anh L, chị T đã tự nguyện tìm hiểu và tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật được quy định tại các Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và gia đình, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh L và chị T đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần xử cho anh Linh được ly hôn chị T.

[2] Về con chung: Anh L, chị T có 02 con chung là Ngô Linh Đ, sinh ngày 05/9/2009 và Ngô Hoàng Y, sinh ngày 14/10/2013. Hiện nay cả 02 con đang ở cùng anh L.

Quá trình giải quyết vụ án anh Linh có nguyện vọng nuôi cả 02 con chung. Tuy nhiên, sau đó anh đề nghị mỗi người nuôi một con chung anh nuôi cháu Y, chị T nuôi cháu Đ do cháu Đ có nguyện vọng ở với mẹ và để đảm bảo điều kiện sống cho các cháu được tốt nhất.

Xét thấy: Anh L, chị T đều có công việc, thu nhập ổn định. Cháu Đ có nguyện vọng được ở với mẹ, cháu Y có nguyện vọng ở với bố nên căn cứ khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX quyết định giao cháu Đ cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu Y cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh L, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[3] Về tài sản, công nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí: Anh Ngô Thế L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 264, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Ngô Thế L được ly hôn chị Hồ Thị Thanh T.

2. Về con chung: Giao cho anh Ngô Thế L là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Ngô Hoàng Y, sinh ngày 14/10/2013. Giao cho chị Hồ Thị Thanh T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Ngô Linh Đ, sinh ngày 05/9/2009. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại thăm nom con chung. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, công nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự: Anh Ngô Thế L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. (Xác nhận anh Ngô Thế L đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2019/0000820 ngày 19/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 25/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về