TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH TR
Ngày 22 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hải Hậu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 289/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Nhị H, sinh năm 1991. Địa chỉ: Xóm 3, xã HP, huyện HH, tỉnh Nam Định.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Thành Tr, sinh năm 1993. Địa chỉ: Xóm 3, xã HP, huyện HH, tỉnh Nam Định.
(Chị H vắng mặt có lý do; anh Tr vắng mặt lần hai không lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 06-7-2020, bản tự khai ngày 12- 11-2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị Nhị H trình bày:
Chị Vũ Thị Nhị H và anh Nguyễn Thành Tr đăng ký kết hôn ngày 21-3- 2017 tại Uỷ ban nhân dân xã HP, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng bố mẹ đẻ chị H tại xóm 3, xã HP. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau, anh Tr không chăm lo đến cuộc sống gia đình, không có trách nhiệm với vợ và con, không hỗ trợ cho chị H trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Mặc dù chị H và gia đình đã khuyên bảo, động viên anh Tr nhiều lần nhưng anh Tr không thay đổi. Tháng 4 năm 2018, lấy lý do đi công tác, anh Tr đã chuyển ra ngoài, sống ly thân với chị H từ đó cho đến nay. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Tr không còn; từ khi chị H làm đơn xin ly hôn, anh Tr cũng không ý kiến gì nên chị H vẫn giữ yêu cầu xin được ly hôn với anh Tr.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Vũ Khánh An, sinh ngày 28-11-2017. Hiện nay, cháu An đang do chị H nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị H có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có nghĩa vụ chung về tài sản nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Toà án đã tống đạt Thông báo thụ lý số 289/TB-TLVA ngày 06-11-2020; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hợp lệ cho anh Nguyễn Thành Tr nhưng anh Tr không đến Tòa án làm việc, không đưa ra lý do của sự vắng mặt và không gửi các văn bản trình bày ý của mình về yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Nhị H. Đồng thời, Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định cũng tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Tr nhưng đến nay anh Tr vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần 2 không lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 21, Điều 262 Bộ luật Tố tụng dân sự, thông qua việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội Đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án, căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, có đủ căn cứ xử cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Nhị H và anh Nguyễn Thành Tr. Đề nghị Tòa án giao con chung là Nguyễn Vũ Khánh An, sinh ngày 28-11-2017 cho chị H nuôi dưỡng; anh Tr không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị H. Về phần tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Do các đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn, chị Vũ Thị Nhị H có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Nguyễn Thành Tr đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng vắng mặt lần hai không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H, anh Tr là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ vợ chồng giữa chị Vũ Thị Nhị H và anh Nguyễn Thành Tr là quan hệ hôn nhân hợp pháp vì được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và được Uỷ ban nhân dân xã HP, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đăng ký kết hôn ngày 21-3-2017. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh Tr thì thấy: Từ cuối năm 2017 giữa chị H và anh Tr đã xảy ra nhiều mâu thuẫn; nguyên nhân do tính tình, quan điểm sống không hợp. Mặc dù đã được gia đình đôi bên khuyên giải nhưng giữa hai người không có những biện pháp cụ thể, thiết thực để giải quyết, khắc phục nên mâu thuẫn giữa chị H và anh Tr ngày càng trầm trọng. Tháng 4 năm 2018, anh Tr tự ý bỏ nhà đi, để con chung cho chị H nuôi dưỡng. Cuộc sống chung giữa chị H và anh Tr chấm dứt từ đó cho đến nay. Trong suốt thời gian sống ly thân, chị H, anh Tr cũng không có biện pháp để hòa giải, đoàn tụ gia đình. Mặt khác, anh Tr đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, anh Tr đã biết được việc chị H làm đơn xin ly hôn nhưng đến nay, anh Tr không có văn bản ghi ý kiến của mình gửi cho Tòa án và cũng không có mặt tại các buổi làm việc của Tòa án đã chứng tỏ anh Tr không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị H. Trên cơ sở xem xét đơn đề nghị của chị H có xác nhận của chính quyền địa phương về tình trạng mâu thuẫn; căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự đã có đủ cơ sở xác định: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Tr đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị H được ly hôn anh Tr là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị Vũ Thị Nhị H và anh Nguyễn Thành Tr có con chung là Nguyễn Vũ Khánh An, sinh ngày 28-11-2017. Hiện cháu An đang ở với chị H. Khi ly hôn, chị H đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con.
Xét yêu cầu của chị H về việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung sau ly hôn thì thấy: Tính đến thời điểm hiện nay, cháu An mới hơn ba tuổi nên cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ nhiều hơn. Từ khi vợ chồng ly thân, con chung do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Đến nay, anh Tr cũng không có ý kiến gì về việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Vì vậy, cần chấp nhận đề nghị của chị H: Giao con chung là cháu Nguyễn Vũ Khánh An cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu An thành niên; anh Tr không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị H là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Quá trình giải quyết vụ án, chị H xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nghĩa vụ chung về tài sản nên không yêu cầu Toà án giải quyết. Từ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến nay, anh Tr cũng không có ý kiến gì về việc giải quyết tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị Nhị H nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Nhị H và anh Nguyễn Thành Tr.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Vũ Khánh An, sinh ngày 28-11- 2017 cho chị Vũ Thị Nhị H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình. Anh Tr không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị H mà có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây anh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Hiện cháu An đang do chị H nuôi dưỡng nên hai bên không phải bàn giao con cho nhau.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Vu Thị Nhị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ tại biên lai số AA/2017/0002395 ngày 06-11-2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Hậu; chị Vũ Thị Nhị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về ly hôn, nuôi con khi ly hôn giữa chị H và anh Tr
Số hiệu: | 33/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về