Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ch, tỉnh K, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 287/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021, về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXX-ST ngày 28 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Út H, sinh năm 1976 (Có mặt) Địa chỉ : ấp Tân Phước, xã Giục Tượng, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Anh Lê Văn X, sinh năm 1974 §Þa chØ : ấp T, xã G, huyện Ch, tỉnh K.

( Anh Lê Văn X vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05-4-2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị Út H trình bày: Vào năm 1993 chị và anh Lê Văn X thành lập gia đình với nhau trên cơ sở hôn nhân tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình chung sống những năm đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng thời gian về sau thường xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân : Do bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, không còn hạnh phúc nữa, bản thân chị rất muốn duy trì cuộc hôn nhân này, nhưng cố gắng không thành nếu cứ duy trì mãi thì chỉ gây đau khổ cho nhau. Chị và anh X đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 cho đến nay.

Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh X không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục xây dựng gia đình hạnh phúc, nên chị quyết định ly hôn với anh Lê Văn X.

Quá trình chung sống chị và anh X có chung với nhau 02 con chung tên: Lê Thị Ngọc D, sinh năm 1994 và Lê Thị Thùy Tr, sinh năm 1998, hiện nay các con đã trưởng thành và có gia đình riêng.

Về tài sản chung : Trong quá trình chung sống vợ chồng chị không tạo dựng được tài sản gì chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung : Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay chị Bùi Thị Út H có yêu cầu:

- Về hôn nhân : Xin được ly hôn với anh Lê Văn X - Về con chung: Chị X xác nhận các con đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung : không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 14- 4-2021 và đơn xin xét xử vắng mặt ngày 28-4- 2021 bị đơn anh Lê Văn X trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị H về hôn nhân, về nguyên nhân mâu thuẫn cũng như về con chung, về tài sản chung và nợ chung là đúng.

Nay chị H yêu cầu xin ly hôn thì anh có ý kiến như sau:

- Về hôn nhân: Đồng ý ly hôn với Bùi Thị Út H - Về con chung: Anh H xác nhận các con đã trưởng thành, không cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa anh X vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghị án, Toà án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 05-4-2021 chị Bùi Thị Út H có đơn khởi kiện xin ly hôn với chị anh Lê Văn X. Đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn” theo Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Bị đơn anh Lê Văn X có đơn xin xét xử vắng mặt, tại phiên tòa nguyên đơn thống nhất xét xử vắng mặt bị đơn. Do vậy, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp theo quy định pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X chung sống với nhau vào năm 1993 trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn là không tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, nên đây là hôn nhân không hợp pháp, vì đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng...” Do đó không công nhận chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X là vợ chồng, là phù hợp pháp luật.

[3] Về con chung: Chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị có 02 người con chung tên Lê Thị Ngọc D, sinh năm 1994 và Lê Thị Thùy Tr, sinh năm 1998, hiện nay các con đã trưởng thành và có gia đình riêng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Bùi Thị Út H là nguyên đơn do đó phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản1 Điều 35, điểm a khoản1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, Khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X.

2.Về con chung: Chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X xác nhận các con đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

3. Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4.Về nợ chung: Chị Bùi Thị Út H và anh Lê Văn X xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5 Về án phí: Chị Bùi Thị Út H phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng chị H được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số 0001636 ngày 12 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ch, tỉnh K; Chị H không phải nộp thêm.

2.“ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014”.

6. Quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Út H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lê Văn X vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về