Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 01/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 01 tháng 04 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1089/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 03 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1987;

Hộ khẩu thường trú: 189/2A Hoàng Hoa A, phường B, thành phố C, tỉnh D.

Địa chỉ hiện nay: 152/7/1 Ba N, phường M, thành phố C, tỉnh D (vắng mặt, có đơn xin giải quyết vắng mặt) 2. Bị đơn: Ông Trần Tuấn K, sinh năm 1983;

Hộ khẩu thường trú: 74/2 Y, phường O, Quận X, Thành phố E.

Địa chỉ hiện nay: 184 Lý Tự S, phường M, thành phố C, tỉnh D. (vắng mặt lần 2 không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 09/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T trình bày: Bà Nguyễn Thị Kim T và ông Trần Tuấn K tự nguyện tìm hiểu nhau, kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường O, Quận X, Thành phố E vào ngày 21/09/2012. Sau khi kết hôn, bà T và ông K sống với nhau không hạnh phúc. Do tính chất công việc nên ông K thường xuyên đi làm qua đêm mà không báo lý do cho vợ. Ngoài công việc thì ông K không quan tâm chia sẻ cuộc sống cùng vợ và chăm sóc con. Dần vợ chồng xảy ra mâu thuẫn ngày càng căng thẳng có nhiều lời lẽ xúc phạm nhau làm ảnh hưởng đến tâm lý của con cũng như bản thân bà. Bà T đã nhiều lần khuyên anh K thay đổi cách sống biết quan tâm vợ con hơn nhưng anh vẫn không thay đổi. Năm 2014 bà T từng nộp đơn khởi kiện lên Tòa án và rút đơn để cho anh cơ hội vợ chồng hiểu nhau và quan tâm nhau hơn nhưng kết quả không thành. Vợ chồng không còn sống chung với nhau, không quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay bà T cảm thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông K.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà T và ông K có hai con chung tên là Trần Nguyễn Anh V, sinh ngày 28-02-2013 và cháu Trần Nguyễn Gia L, sinh ngày 25-09-2019.Ngoài ra bà không có con nuôi. Bà T có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai con và không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Trần Tuấn K: Ông Trần Tuấn K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông K không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố C thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố Tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 227 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 72, 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa bà T và ông K đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Trần Tuấn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại các điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông K kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường O, Quận X, Thành phố E vào ngày 21/09/2012 theo đúng quy định về đăng ký kết hôn tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Nguyên đơn bà T cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do ông K thường xuyên đi chơi qua đêm không quan tâm đến vợ, cuộc sống vợ chồng không cùng quan điểm, vợ chồng không có sự quan tâm chia sẻ cùng nhau. Do không thể tiếp tục sống chung với nhau, tình cảm của bà dành cho ông K không còn nên yêu cầu được ly hôn với ông K.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện bà T hiện đang sống một mình với hai con nên mâu thuẫn của bà T và ông K là có thật.

Xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc. Để đạt được mục đích này, vợ chồng phải quan tâm, yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau về mọi mặt. Về phía bị đơn ông K đã được triệu tập nhiều lần đến làm việc nhưng ông K không đến và cũng không có bất kỳ ý kiến phản hồi nào đối với yêu cầu của bà T, chứng tỏ ông K không có ý muốn hàn gắn gia đình. Xét tình trạng mâu thuẫn giữa bà T và ông K đã đến mức trầm trọng, vợ chồng bà T không còn sống chung với nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc bà T yêu cầu được ly hôn với ông K là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống, bà T và ông K có hai con chung tên là Trần Nguyễn Anh V, sinh ngày 28-02-2013 và cháu Trần Nguyễn Gia L, sinh ngày 25-09-2019. Ngoài ra bà không có con nuôi. Bà T có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai con và không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Quyền nuôi con, chăm sóc con là quyền chung của cả cha và mẹ, cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con chung. Việc giao con cho ai nuôi phải đảm bảo cho các con có điều kiện tốt nhất để phát triển cả về thể chất, tinh thần và nhân cách.

Xét về điều kiện thì bà T có công việc, thu nhập ổn định, đủ khả năng về mặt vật chất để nuôi dạy con chung. Cháu V và cháu L đang trong quá trình học hỏi và hình thành nhân cách cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ giành cho con. Từ nhỏ cho đến nay, bà T là người trực tiếp chăm sóc và gần gũi quan tâm các con hơn. Xét về độ tuổi hai cháu còn nhỏ, đều đang cần sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, hai cháu sống cùng nhau từ nhỏ, do đó việc để hai cháu sống cùng nhau là cần thiết vừa để các cháu phát triển bình thường về tinh thần, không bị xáo trộn về mặt tâm lý. Cháu Trần Nguyễn Anh V có nguyện vọng được ở với mẹ phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Do vậy yêu cầu được nuôi hai cháu của bà Nguyễn Thị Kim T là có cơ sở pháp lý được chấp nhận.

[2.3] Tài sản chung và nợ chung: Bà T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 203, Khoản 1 Điều 227, 228, 238, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T đối với bị đơn ông Trần Tuấn K về việc xin ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim T được ly hôn với ông Trần Tuấn K.

2. Về con chung: Có hai con chung tên là Trần Nguyễn Anh V, sinh ngày 28-02-2013 và cháu Trần Nguyễn Gia L, sinh ngày 25-09-2019. Ngoài ra bà Tuyền không có con nuôi. Giao cháu Anh V và cháu Gia L cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Ông K có quyền thăm và chăm sóc các con chung không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét 4. Về tài sản chung, nợ chung: Bà T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim T phải nộp số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0007331 ngày 30-11-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh D.

6. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh D xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 01/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về