Bản án 33/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87a/QĐXXST-HS ngày 19/5/2020 đối với bị cáo:

Quàng Văn B, tên gọi khác: Không, sinh ngày 13 tháng 10 năm 1975, tại huyện S, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản C, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Khơ Mú; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Quàng Văn K và bà Lò Thị T; có vợ và có 4 con; tiền án; tiền sự: không có; nhân thân; bị bắt tạm giam từ ngày 20/02/2020 cho đến ngày 28/5/2020, được thay đổi bằng biện pháp bảo lĩnh, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Mòng Thị L, sinh năm 1979, trú tại bản C, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 20 tháng 02 năm 2020 Quàng Văn B đi xe máy từ nhà ở bản Co Đứa đến bản Tông Hùm, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, mua được 03 viên ma túy tổng hợp của một người đàn ông không quen biết với số tiền 120.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân, khi về đến trung tâm bản Tông Hùm, xã Mường Và, thì bị Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi áo đang mặc của B 01 gói ni lon màu xanh bên trong chứa 03 viên nén màu hồng và tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu Win màu đen, không có biển kiểm soát. B cùng vật chứng bị dẫn giải đến cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp để điều tra làm rõ. Ngày 24/02/2020 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, xác định khối lượng vật chứng, gói vật chứng của B có khối lượng 0,30 gam, đã sử dụng hết làm mẫu giám định ký hiệu B.

Tại bản kết luận giám định số 407 ngày 28/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn, La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu B là ma túy, loại: Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu giám định là 0,30gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,30gam; loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 36/CT-VKSSC ngày 10 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Quàng Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt Quàng Văn B từ 15 tháng đến 20 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng:

-01(một) phong bì thư đã được niêm phong dán kín bên trong có 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở và một mảnh ni lon màu xanh; 01(một) phong bì thư của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La đã được niêm phong dán kín bên trong gồm: phong bì niêm phong cũ và chất bột màu hồng là Mẫu gửi giám định ký hiệu B không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,28 gam sử lý theo quy định của pháp luật.

-Tuyên trả cho bà Mòng Thị L 01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu Win màu sơn đen.

Về án phí: Bị cáo thuộc dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn thuộc hộ nghèo, nên cần miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về chứng cứ xác định tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Quàng Văn B khai nhận ngày 20 tháng 02 năm 2020 đã mua được 03 viên ma túy tổng hợp của một người không quen biết với số tiền 120.000 đồng, khi đang tàng trữ trên người đã bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện bắt quả tang thu giữ số vật chứng nói trên; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản cân tịnh vật chứng ngày 24/02/2020, kết luận giám định số 407, ngày 24/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 0,30 gam ma túy, loại Methamphetamine.

Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Quàng Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật, nhận thức được Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo tương xứng với hành vi phạm tội, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Tình tiết giảm nhẹ: Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan Điều tra và phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

Với các căn cứ nêu trên. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo Quàng Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.

[5] Về nguồn gốc 0,30 gam ma túy, người trực tiếp bán ma túy cho bị cáo đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý về hình sự, nhưng do chưa xác định được đối tượng, nên chưa có căn cứ xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan Điều tra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; xét thấy bị cáo không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng. [7]Về vật chứng: 01(một) phong bì thư của công an huyện Sốp Cộp đã được niêm phong dán kín, bên trong có 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở và một mảnh ni lon màu xanh; 01(một) phong bì thư của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín gồm: phong bì niêm phong cũ và chất bột màu hồng là Mẫu gửi giám định ký hiệu B không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,28 gam.

- 01(một) chiếc xe máy Win, màu sơn đen, Lốc máy bên trái có chữ NORIS, Lốc máy bên phải có chữ RIVER, không có biển kiểm soát, số khung: 345051; số máy: 001005, xác định là tài sản chung của gia đình bị cáo, khi bị cáo sử dụng vào hành vi phạm tội bà Liên là vợ của bị cáo không biết, nên cần trả lại cho gia đình bị cáo là bà Mòng Thị Liên.

[8] Về án phí: Căn cứ vào, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo và người liên quan

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, 38 Bộ luật hình sự; tuyên bố Quàng Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy

2. Về hình phạt: Xử phạt Quàng Văn B 15 (mười lăm) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/2/2020 đến ngày 28/5/2020, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày nhập trại để thụ hình.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

4. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu hủy 01(một) phong bì thư của công an huyện Sốp Cộp đã được niêm phong dán kín ghi, bên trong có 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở và một mảnh ni lon màu xanh; 01(một) phong bì thư của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La đã được niêm phong dán kín gồm: phong bì niêm phong cũ và chất bột màu hồng là mẫu gửi giám định ký hiệu B không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,28 gam.

- Tuyên trả cho Mòng Thị L 01(một) chiếc xe máy Win, màu sơn đen, Lốc máy bên trái có chữ NORIS, Lốc máy bên phải có chữ RIVER, không có biển kiểm soát, số khung: 345051; số máy: 001005, xe đã cũ nát, hỏng nhiều bộ phận, đã qua sử dụng. Vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13 tháng 5 năm 2020, giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện và Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

5. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn B.

6. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/5/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về