Bản án 33/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Lý Xuân T (tên gọi khác: Không có); sinh ngày 22 tháng 8 năm 2000 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn V, xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Thái S, sinh năm 1974 và bà Lý Thị L, sinh năm 1972; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 22/01/2020 đến ngày 20/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lý Thị L, sinh năm 1972. Nơi cư trú: Thôn V, xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Tô Văn T, sinh năm 1990. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2019, Lý Xuân T đi sang khu vực B, Trung Quốc làm thợ xây nên có biết ở Bản G, Trung Quốc có bán pháo nổ. Khoảng 13 giờ ngày 22/01/2020, Lý Xuân T ở nhà tại thôn V, xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì nảy sinh ý định sang Trung Quốc mua pháo nổ về để đốt trong dịp Tết Nguyên đán, đến khoảng 15 giờ cùng ngày Lý Xuân T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu LXMOTO biển kiểm soát 12V1 – 001** đi từ nhà đến khu vực thôn P1, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn và để xe mô tô ở đường biên giới, cách mốc 1064 khoảng 32m; sau đó một mình đi bộ sang Bản G, Trung Quốc. Khi vào sâu trong nội địa Trung Quốc, Lý Xuân T đến một cửa hàng bán pháo và gặp một người phụ nữ Trung Quốc khoảng 30 tuổi, qua trao đổi bằng tiếng dân tộc Nùng, Lý Xuân T đã mua 03 giàn pháo loại 49 quả/giàn và 01 giàn pháo loại 100 quả/giàn hết số tiền là 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng). Người bán hàng cho toàn bộ số pháo Lý Xuân T vừa mua vào một thùng cát tông, Lý Xuân T nhận và ôm thùng cát tông bên trong có chứa pháo đi theo đường mòn cũ về Việt Nam; đến chỗ để xe mô tô biển kiểm soát 12V1 – 001**, Lý Xuân T đặt thùng pháo lên giá trước của xe rồi điều khiển xe đi về nhà, khi đi đến khu vực ngã ba đường tuần tra biên giới khu vực P2 (địa danh của cư dân địa phương gọi) thuộc thôn P1, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị tổ công tác Đồn biên phòng N phối hợp với Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ bắt quả tang, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 18 giờ 55 phút.

Thu giữ tang vật gồm: 01 (một) thùng cát tông có kích thước 51cm x 42cm x 17cm, bên trong có: 03 (ba) khối hình hộp kích thước là 17cm x 17cm x 15cm/khối mỗi khối hộp chứa 49 vật hình trụ được liên kết với nhau và 01 (một) khối hình hộp kích thước là 24cm x 24cm x 14,8cm, chứa 100 vật hình trụ được liên kết với nhau; bên ngoài các khối hình hộp đều được dán giấy màu đỏ, vàng có nhiều chữ Trung Quốc đều nghi chứa thuốc pháo khi kích thích có thể gây nổ; tổng khối lượng tang vật nghi pháo nổ thu giữ được là 10kg (mười ki lô gam). Tạm giữ: 01 (một) xe mô tô màu đen đỏ, nhãn hiệu LXMOTO biển kiểm soát 12V1 – 001**, đã qua sử dụng.

Ngày 29/01/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định số pháo thu giữ ngày 22/01/2020 của Lý Xuân T. Tại Kết luận giám định số 83/KL–PC09 ngày 31/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Mẫu vật gửi giám định đều có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây tiếng nổ.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 17/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lý Xuân T về tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm k khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận hành vi vận chuyển hàng cấm pháo nổ từ Trung Quốc về Việt Nam là vi phạm pháp luật.

Bà Lý Thị L trình bày chiếc xe mô tô màu đen đỏ, nhãn hiệu LXMOTO biển kiểm soát 12V1 – 001** là tài sản riêng của bà, giấy tờ xe mang tên bà; ngày 22/01/2020 Lý Xuân T tự ý mang xe đi không xin phép, bà không biết Lý Xuân T đi vận chuyển pháo; bà xin lại chiếc xe để có phương tiện đi lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lý Xuân T phạm tội Vận chuyển hàng cấm; áp dụng điểm k khoản 2 Điều 191, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lý Xuân T từ 24 tháng đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng. Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bà Lý Thị L 01 (một) xe mô tô màu đen đỏ, nhãn hiệu LXMOTO biển kiểm soát 12V1 – 001**.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, bị cáo bị bệnh tim đang điều trị tại bệnh viện và xin được hưởng án treo, được cải tạo tại địa phương để tiếp tục chữa bệnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 15 giờ ngày 22/01/2020, Lý Xuân T vượt biên giới sang Trung Quốc mua 10 kg (mười ki lô gam) pháo nổ vận chuyển về Việt Nam, với mục đích để đốt; bị cáo đang trên đường vận chuyển về đến khu vực P2 thuộc thôn P1, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị tổ công tác Đồn biên phòng N phối hợp với Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ bắt quả tang, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 18 giờ 55 phút cùng ngày. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lý Xuân T phạm tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán và đốt các loại pháo nổ. Bị cáo có đầy đủ năng lực, nhận thức được hành vi vận chuyển pháo nổ là vi phạm pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của minh. Ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành tốt các quy định của Đảng và Nhà nước.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội đơn giản, nhất thời phạm tội, khối lượng pháo vận chuyển không lớn, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo đang điều trị bệnh tim có xác nhận của Trung tâm Y tế huyện V, tỉnh Lạng Sơn; thời gian sinh sống tại địa phương bị cáo chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, xét thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 12/02/2020 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Đối với 10 kg (mười ki lô gam) pháo nổ và một thùng cát tông, cơ quan điều tra đã tiến hành tiêu hủy theo quy định. Đối với chiếc xe mô tô màu đen đỏ, nhãn hiệu LXMOTO biển kiểm soát 12V1 – 001**, quá trình điều tra xác định là của bà Lý Thị L, mẹ bị cáo, bà Lý Thị L không biết bị cáo sử dụng xe đi vận chuyện pháo do đó cần trả lại cho bà Lý Thị L.

[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Đối với người phụ nữ bán pháo nổ cho bị cáo, bị cáo khai là người Trung Quốc, do điều kiện lãnh thổ nên không xác minh làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm k khoản 2 Điều 191, khoản 2 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Xuân T phạm tội Vận chuyển hàng cấm.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lý Xuân T 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/5/2020).

Giao bị cáo Lý Xuân T cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Lý Xuân T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2010.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bà Lý Thị L 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu LXMOTO màu đen đỏ, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12V1 – 001**. (Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/4/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Lý Xuân T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về