Bản án 33/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 19 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2020/HSST ngày 03 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2020/QĐXXST-QĐ đối với bị cáo:

Họ và tên: Chu Văn HT.

- Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam.

- Sinh ngày: 05 tháng 8 năm 1977.

- Nơi cư trú: Tổ dân phố TP, thị trấn DC, huyện V, tỉnh Thái Nguyên.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

- Nghề nghiệp: Lao động tự do.

- Trình độ văn hóa: 12/12.

- Họ và tên bố: Chu Đình A1 (đã chết).

- Họ và tên mẹ: Hoàng Thị A2, sinh năm: 1947.

- Anh chị em ruột: Gia đình có 03 người, bị cáo là con thứ 03.

- Vợ: Đường Thị THA, sinh năm 1979.

- Con: có 02 người con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2005.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/5/2020 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Võ Nhai. (Có mặt) *Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đường Thị THA – Sinh năm 1979.

Địa chỉ: Tổ dân phố TP, TT DC, V, Thái Nguyên.

(Có mặt)

*Người làm chứng:

1, Ông Đường H5 – Sinh năm 1947.

Địa chỉ: Tổ dân phố TP, TT DC, V, Thái Nguyên.

(Vắng mặt) 2, Ông Trịnh Quốc TR – Sinh năm 1971. Địa chỉ: Xóm LM, xã LT, V, Thái Nguyên. (Vắng mặt)

*Người chứng kiến:

Ông Nông Thanh CH – Sinh năm 1967.

Địa chỉ: Tổ dân phố TP, TT DC, V, Thái Nguyên. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 00 ngày 07/5/2020, Công an xã Lâu Thượng, huyện V, tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trịnh Quốc TR, sinh năm 1971, trú tại xóm LM, xã Lâu LT, huyện V, tỉnh Thái Nguyên về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. TR khai số ma túy trên mua của người tên HT thường gọi là “HT Lụa” ở khu vực Tổ dân phố TP, thị trấn DC với giá 1.000.000 đồng về để sử dụng. Cơ quan điều tra Công an huyện V đã thành lập Tổ công tác tiến hành xác minh địa điểm và người bán ma túy cho TR. Hồi 16 giờ cùng ngày, Tổ công tác đến vị trí TR xác nhận đã mua ma túy là nhà ông Đường H5, sinh năm 1947, thuộc Tổ dân phố TP, thị trấn DC, huyện V, tỉnh Thái Nguyên thì có mặt ông H5, vợ ông H5 là bà La Thị N, sinh năm 1950, con gái ông H5 là chị Đường Thị THA, sinh năm 1979 và Chu Văn HT, sinh năm 1977, trú cùng Tổ dân phố TP là con rể ông H5. Quá trình làm việc thì Chu Văn HT đã thừa nhận mình đang cất giấu ma túy và tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 gói nilon màu trắng bên trong có chất màu trắng dạng cục HT lấy ra từ trong một hộp giấy bìa cứng đặt tại chiếc giường kê tại gian thứ nhất bên phải nhà ông H5 theo hướng từ ngoài nhìn vào và là buồng ngủ của hai vợ chồng HT trong nhà ông Hải. HT khai số chất màu trắng dạng cục trên là ma túy loại Heroine của HT cất giấu để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong số chất bột màu trắng dạng cục trên vào phong bì kí hiệu K1 và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Chu Văn HT về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện V ra Lệnh khám xét khẩn cấp đối với người, địa điểm, chỗ ở của Chu Văn HT tại nhà ông Đường H5 và nhà riêng của HT thuộc tổ dân phố TP. Qua khám xét tại chỗ ở của HT tại nhà ông H5 phát hiện và thu giữ: 01 hộp nhựa hình trụ bên ngoài được bọc bằng băng dính màu đen, để trong túi vải treo trên giá, được niêm phong vào phong bì kí hiệu T1; số tiền 3.500.000 đồng thu giữ tại đầu giường ngủ của vợ chồng HT, niêm phong vào phong bì kí hiệu T2; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, niêm phong vào phong bì kí hiệu T3; 01 mảnh giấy hình chữ nhật kích thước 9x7cm, một mặt màu trắng, một mặt màu đỏ cam, niêm phong vào phong bì kí hiệu T4. Tại nhà riêng của Chu Văn HT, qua khám xét không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì vi phạm pháp luật.

Tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất màu trắng dạng cục có trong 01 gói nilon thu giữ của Chu Văn HT ngày 07/5/2020 có khối lượng là 1,284 gam sau đó niêm phong vào phong bì ký hiệu V1 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 648/KL-KTHS ngày 15/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: “Mẫu chất màu trắng dạng cục trong phong bì kí hiệu V1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 1,284 gam.” Tại cơ quan điều tra HT khai nhận: Do nghiện chất ma túy loại Heroine nên trước ngày 07/5/2020 khoảng 15 ngày HT đã đi một mình từ nhà đến khu vực bến xe Thái Nguyên cũ để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây HT đã gặp và mua ma túy của một người đàn ông không quen biết với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, HT mang về nhà ông Hải là bố vợ của HT và cất số ma túy vào hộp giấy để trên đầu giường ngủ của hai vợ chồng HT mục đích để sử dụng dần.Đến ngày 07/5/2020 khi Tổ công tác Công an huyện Võ Nhai đến làm việc thì HT đã tự giác giao nộp số ma túy đang cất giữ và không thừa nhận việc bán ma túy cho Trịnh Quốc TR.

Lời khai nhận của Chu Văn HT phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người chứng kiến, người làm chứng và các tài liệu khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 30/CT- VKSVN ngày 03/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai truy tố bị cáo Chu Văn HT về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận hành vi của mình như đã nêu trên.

Kết thúc thẩm vấn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ NHai, tỉnh Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố Chu Văn HT về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Sau khi đánh giá chứng cứ đã đề nghị:

- Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo Chu Văn HT từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

*Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

**Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

*Tịch thu tiêu hủy: - 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu V1 mặt trước phong bì ghi “hoàn trả 1,271 gam mẫu V1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu V1 vụ Chu Văn HT, sinh năm 1977. Phạm tội về ma túy. Mặt sau phong bì có 02 dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, 01 chữ ký và họ tế Trương Đăng Tam.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T1 mặt trước phong bì ghi “01 hộp nhựa hình trụ bên ngoài được bọc băng dính đen”; mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Công an Thị trấn DC, Công an huyện V, 04 chữ ký họ và tên của Nông Thanh CH, Chu Văn HT, Đường H5.

- 01(một) phong bì niêm phong ký hiệu N1 mặt trước phong bì ghi “01 gói nilon màu tắng và 01 vỏ phong bì K1”; mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, 04 chữ ký họ và tên của Chu Văn HT, Lương Văn Mạnh, Lê Văn Lượng, Nguyễn Thị Cảnh.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T4 mặ trước phong bì ghi “01 mảnh giấy dạng hình chữ nhật kích thước 9cm x 7 cm”, mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Công an Thị trấn DC, Công an huyện V, 04 chữ ký họ và tên của Đường H5, Nông Thanh CH, Chu Văn HT.

* Tạm giữ: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu F1 mặt trước phong bì ghi “01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, màu vàng đồng, đã cũ thu giữ của Chu Văn HT”, mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, 04 chữ ký, họ và tên của Chu Văn HT, Vũ Thị Năm, Lý Phúc Kim, Nguyễn Đức Anh.

*Trả cho bà Đường Thị THA số tiền 3.500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến bào chữa tranh luận gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có tranh luận gì.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định tội phạm:

Hồi 16 giờ 00 phút ngày 07/5/2020 tại nhà ông Đường H5, sinh năm 1947 thuộc Tổ dân phố TP, thị trấn DC, huyện V, tỉnh Thái Nguyên, Chu Văn HT đã có hành vi tàng trữ 01 gói Heroine có khối lượng là 1,284 gam mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện Võ Nhai phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Hành vi tàng trữ trái phép 1,284 gam Heroine của Chu Văn HT đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

“Điều249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)… c) Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo Chu Văn HT theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]Xét tính chất của vụ án thấy: Bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi với lỗi cố ý, hành vi của bị cáo xâm phạm vào sự quản lý độc quyền về chất ma túy của Nhà nước.Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mà bị cáo đã gây ra.

Xét nhân thân bị cáo thấy bị cáo sinh ra được gia đình nuôi ăn học hết phổ thông, tham gia quân ngũ, sau đó ra quân về địa phương, bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Ngày 07/5/2020 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Bị cáo có mẹ đẻ được tặng thưởng Kỷ niệm chương Thanh niên xung phong. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ vào tính chất của vụ án cũng như các yếu tố về nhân thân cùng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy hành vi và tội phạm bị cáo phạm phải là nghiêm TR, gây hệ lụy xấu cho bản thân và xã hội. Do vậy, cần lên mức án cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

*Về hình phạt bổ sung: Vì bản thân bị cáo nghiện ma túy, có 02 con nhỏ và không có tài sản riêng nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

*Xét một số vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Tịch thu tiêu hủy: - 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu V1 mặt trước phong bì ghi “hoàn trả 1,271 gam mẫu V1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu V1 vụ Chu Văn HT, sinh năm 1977. Phạm tội về ma túy. Mặt sau phong bì có 02 dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, 01 chữ ký và họ tế Trương Đăng Tam.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T1 mặt trước phong bì ghi “01 hộp nhựa hình trụ bên ngoài được bọc băng dính đen”; mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Công an Thị trấn DC, Công an huyện V, 04 chữ ký họ và tên của Nông Thanh CH, Chu Văn HT, Đường H5.

- 01(một) phong bì niêm phong ký hiệu N1 mặt trước phong bì ghi “01 gói nilon màu tắng và 01 vỏ phong bì K1”; mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, 04 chữ ký họ và tên của Chu Văn HT, Lương Văn Mạnh, Lê Văn Lượng, Nguyễn Thị Cảnh.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T4 mặ trước phong bì ghi “01 mảnh giấy dạng hình chữ nhật kích thước 9cm x 7 cm”, mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Công an Thị trấn DC, Công an huyện V, 04 chữ ký họ và tên của Đường H5, Nông Thanh CH, Chu Văn HT.

* Tạm giữ: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu F1 mặt trước phong bì ghi “01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, màu vàng đồng, đã cũ thu giữ của Chu Văn HT”, mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, 04 chữ ký, họ và tên của Chu Văn HT, Vũ Thị Năm, Lý Phúc Kim, Nguyễn Đức Anh để đảm bảo thi hành án.

*Trả cho bà Đường Thị THA Số tiền 3.500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Trịnh Quốc TR phát hiện hồi 09 giờ ngày 07/5/2020 có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ngày 16/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã khởi tố TR trong một vụ án khác.

Đối với việc Trịnh Quốc TR khai sáng ngày 07/5/2020, TR đi một mình đến nhà ông Hải để tìm gặp HT và mua 02 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng, khi giao dịch không có ai chứng kiến hoặc biết. Quá trình đối chất giữa HT và TR thì HT khẳng định TR có gặp HT và hỏi mua ma túy nhưng HT không bán Heroine cho TR. Đến nay ngoài lời khai của TR thì không có tài liệu nào chứng minh việc HT bán ma túy cho TR. Do vậy không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với HT về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về nguồn gốc heroine thu giữ của Chu Văn HT, HT khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực bến xe khách Thái Nguyên cũ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Võ Nhai không có đủ căn cứ xác minh làm rõ.

[7] Xét đề nghị của VKSND huyện V tại phiên toà hôm nay về tội danh là phù hợp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Chu Văn HT phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.Về hình phạt.

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Chu Văn HT 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/5/2020.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo HT trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2.Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

2.1. Tịch thu tiêu hủy: - 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu V1 mặt trước phong bì ghi “hoàn trả 1,271 gam mẫu V1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu V1 vụ Chu Văn HT, sinh năm 1977. Phạm tội về ma túy. Mặt sau phong bì có 02 dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, 01 chữ ký và họ tế Trương Đăng Tam.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T1 mặt trước phong bì ghi “01 hộp nhựa hình trụ bên ngoài được bọc băng dính đen”; mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Công an Thị trấn DC, Công an huyện Võ Nhai, 04 chữ ký họ và tên của Nông Thanh CH, Chu Văn HT, Đường H5.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu N1 mặt trước phong bì ghi “01 gói nilon màu tắng và 01 vỏ phong bì K1”; mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Võ Nhai, 04 chữ ký họ và tên của Chu Văn HT, Lương Văn Mạnh, Lê Văn Lượng, Nguyễn Thị Cảnh.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T4 mặ trước phong bì ghi “01 mảnh giấy dạng hình chữ nhật kích thước 9cm x 7 cm”, mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Công an Thị trấn DC, Công an huyện Võ Nhai, 04 chữ ký họ và tên của Đường H5, Nông Thanh CH, Chu Văn HT.

2.2. Tạm giữ tài sản của bị cáo Chu Văn HT để đảm bảo thi hành án.

Tạm giữ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu F1 mặt trước phong bì ghi “01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, màu vàng đồng, đã cũ thu giữ của Chu Văn HT”, mặt sau phong bì có 03 dấu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Võ Nhai, 04 chữ ký, họ và tên của Chu Văn HT, Vũ Thị Năm, Lý Phúc Kim, Nguyễn Đức Anh.

2.3.Trả cho bà Đường Thị THA số tiền 3.500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

*Về tình trạng vật chứng: Vật chứng nêu trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Võ Nhai theo biên bản giao nhận vật chứng và Ủy nhiệm chi giữa Công an huyện Võ Nhai và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Võ Nhai.

3.Về án phí: Áp dụng điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Chu Văn HT phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, có mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Võ Nhai - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về